Nguyễn Quang Sáng - Cánh chim sếu đầu đỏ Đồng Tháp Mười

Thứ Bảy, 15/02/2014, 16:26
Tôi chơi với Nguyễn Quang Sáng từ những năm mới tập kết ra Hà Nội, cùng ở Đài Tiếng nói Việt Nam. Hồi ấy tôi hay cùng anh đến chơi với Đoàn Giỏi ở Cổ Tân, cùng đàm đạo văn chương, thế sự mỗi lúc nhớ nhà, nhớ quê hương miền Nam. Chính quãng thời gian “đêm Nam, ngày Bắc” ấy, chúng tôi càng hiểu, quý mến nhau hơn.

Còn nhớ, lúc bấy giờ, tôi cùng Nguyễn Quang Sáng đã rời khỏi quân ngũ, cùng làm biên tập cho Đài Tiếng nói Việt Nam. Nguyễn Quang Sáng viết “Con chim vàng” đăng ở Báo Văn nghệ, Nguyễn Tuân đọc được, cụ khen anh như con gà chọi đủ lông, đủ cánh, cựa sắc nhọn, có thể ra trường đấu được. Điều  này đồng nghĩa là Nguyễn Quang Sáng tự chọn cho mình miếng võ riêng, có thể đấu với văn chương chuyên nghiệp.

Nhận định của cụ Nguyễn trở thành sự thực. Khi tôi làm ở Báo Thống Nhất, anh về Báo Văn nghệ và liên tục gặt hái nhiều giải thưởng. Truyện “Ông Năm Hạng”, anh viết về ông già Nam Bộ kiên cường, giành giải nhất truyện ngắn của Báo Thống Nhất. Sau này, “Dòng sông thơ ấu” anh viết về dòng sông quê anh cũng giành giải thưởng của Hội đồng văn học thiếu nhi Hà Nội. Hàng loạt giải thưởng khác cũng đã được trao cho Nguyễn Quang Sáng, đặc biệt trong đó có Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000. Đây là giải thưởng cao quý nhất về văn chương cách mạng nhưng quý hơn nữa là bởi, Nguyễn Quang Sáng là một trong những người đầu tiên của Nam Bộ thành đồng được nhận giải thưởng này.

Trở lại chuyện cụ Nguyễn Tuân, sau “Con chim vàng” và “Đất lửa”, cụ Nguyễn thương Sáng như người nhà, xem chúng tôi như em út. Mãi sau này, khi tôi viết sách về cụ, cụ vẫn thường bảo tôi: “Sáng như con chim vàng sải cánh trên cánh đồng lúa mênh mông của Nam Bộ, có thể bay cao đó!”. Khi đưa ra những nhận định về Sáng, cụ Nguyễn thường có những đánh giá rất cao: Nguyễn Quang Sáng, ngòi bút sắc sảo và đậm đà sắc màu miền Tây Nam Bộ, tiêu biểu cho châu thổ sông Chín Rồng cuộn sóng...

Tài năng và tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng không chỉ được ghi nhận bằng những đánh giá cao của các đồng nghiệp, nhà văn đàn anh đàn chị hay các giải thưởng mà còn là nhà văn được yêu mến trong hầu khắp bạn đọc nhiều thế hệ. Còn nhớ, những ngày đầu giải phóng Campuchia, tôi với anh đi máy bay từ đất bạn về Tân Sơn Nhất. Máy bay bị trục trặc. Sau mấy tiếng đồng hồ chờ đợi, sốt ruột, anh và tôi đã định về bằng đường bộ. Trước khi về, anh gọi điện cho người bạn chiến đấu lái máy bay, không ngờ chuyện đến tai nhiều người khác. Nhiều đồng chí ở sân bay bảo ai chớ nhà văn Nguyễn Quang Sáng về thì phải đảm bảo chớ. Kết quả là chúng tôi được ưu tiên sắp xếp về quê sớm nhất. Chỉ có điều, khi đến sân bay, vì chúng tôi mua quà về hơi nhiều nên cân hơi nặng, vượt mức cho phép. Biết tiếng nhà văn Nguyễn Quang Sáng, cô nhân viên cân hành lý ưu tiên không tính tiền cước, còn bảo đồng nghiệp: “Bản thảo của nhà văn mà”!

Một chuyện vui khác về nhà văn và bạn đọc mà tôi được chứng kiến là cùng anh ngồi xe hơi chạy lòng vòng ở Hà Nội. Xe chở quá số người quy định, bị anh công an thổi còi phạt. Nguyễn Quang Sáng xuống nói chuyện. Nhận ra nhà văn, anh Công an nói anh từng đọc và học “Chiếc lược ngà” của nhà văn từ ngày còn là học sinh phổ thông. Quay sang đồng nghiệp, anh bảo, đại ý: “Thôi, không phạt nhà văn viết bài cho nhà trường dạy”.

Thực ra, để có được văn nghiệp đáng tự hào như hiện nay, với Nguyễn Quang Sáng là cả một chuỗi những tháng ngày lao động cực kỳ nghiêm khắc. Tôi còn nhớ, sau một thời gian gắn bó với anh ở Hà Nội, Nguyễn Quang Sáng đi B (trở lại chiến trường miền Nam). Tôi vào sau nhưng chúng tôi vẫn thư từ cho nhau. Khi giải phóng miền Nam, tôi và anh xuống Tân Sơn Nhất, anh không đi ôtô mà cùng tôi thuê xe xích lô máy chạy quanh các quận. Anh bảo: “Phải đi thế này mới quan sát hết được”. Hai anh em đi thực tế nên từ sân bay về đến nơi hẹn không xa mà đến mãi chiều mới tới nơi.

Sau giải phóng, tôi và anh lại được sắp xếp ở chung một mái nhà tại 148 Võ Văn Tần. Đây là tòa nhà do Tuyên huấn Thành ủy tiếp quản. Tòa nhà như là “chiêu đãi sở” của anh và tôi, dành để tiếp nhiều bạn văn: Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Văn Bổng... Ở hơn 10 năm trời thì chúng tôi về quận 7. Tuổi đã cao nhưng anh và tôi vẫn thường xuyên vắng nhà, đi đó đi đây, vừa thực tế nông thôn, vừa tìm cảm hứng sáng tác. Anh thường đưa tôi về Chợ Mới quê anh, nơi có “Dòng sông tuổi thơ”, nơi có ngọn cờ đỏ sao vàng treo từ năm 1930, nơi anh sinh ra và lớn lên, đi kháng chiến, nơi đồng bào anh đã sống, chiến đấu mấy chục năm tròn. Chỉ trước mấy tháng anh mất, anh còn bảo tôi sẽ đi Hà Nội một chuyến “trối già”, có thể là vào tháng 10-2014 nhân dịp nhận Huy hiệu 65 năm tuổi Đảng.

Thế mà, cuối ngày 13/2, tôi đã mong mình nhầm trước tin anh mất. Cùng Nguyễn Duy, Lê Quang Trang vuốt mắt cho anh, chúng tôi thầm cầu nguyện “người lính già kể chuyện chiến đấu kiên cường của Nam Bộ thành đồng” thanh thản ở nơi chín suối. Anh đã 60 năm cầm bút không lúc nào ngơi nghỉ. Thay nén nhang thơm, chúng tôi xin tiễn biệt anh về với thế giới người hiền. Về với Nguyễn Tuân, Đoàn Giỏi, Nguyễn Đình Thi... anh nhé.

Khóc anh một chiều xuân lạnh.

TP Hồ Chí Minh, ngày 14 tháng 2 năm 2014

Đ.M.T.
.
.
.