Người nghệ sĩ Pháp và cây cầu của những ước mơ

Chủ Nhật, 31/05/2009, 12:55
Cuộc triển lãm tại Hà Nội gần đây nhất vào tháng 3/2008 của Dominique de Miscault có tên là "Long Biên, cây cầu của những ước mơ". Cái tên ấy lại gợi cho tôi hình ảnh rất hợp với người bạn mà tôi cảm mến: "Dominique, cây cầu của những ước mơ". Chị không chỉ tạo ra cây cầu Long Biên qua một cái nhìn mới, một cây cầu có ý nghĩa tinh thần, nối liền Việt - Pháp. Đối với tôi, bản thân chị giống như một cây cầu, nặng trĩu trên mình bao hoài niệm và mộng mơ.
>> Cây cầu vắt qua 3 thế kỷ

Ca dao Việt Nam có câu: Muốn sang thì bắc cầu Kiều. Mặc cho các chuyên gia về văn học vẫn cãi nhau về chữ "kiều", ở đây tôi muốn hiểu theo nghĩa: kiều là đẹp. Có đẹp, có nghệ thuật mới tạo ra ước mơ. Ngoài ra, hẳn người xưa cũng hàm ý: đây là một việc đòi hỏi nhiều, không chỉ công sức, bởi câu sau còn nói đến tình yêu (Muốn con hay chữ…).

Từ 1994, qua những triển lãm sắp đặt, minh họa hình ảnh Việt Nam, có thể nói rằng Dominique, bằng những hình thức, chủ đề độc đáo, đã thổi một luồng gió lạ vào không khí nghệ thuật ở ta: y phục phụ nữ, tranh trên lụa tơ tằm, những dấu tích của Bác Hồ ở Pháp trên nền ảnh trắng đen, minh họa thơ Trần Đăng Khoa, minh họa thơ Thiền Tông thế kỉ X-XII…

Tôi nhớ mãi những màu xanh thiên lý, màu điều, màu tím Huế óng ả trên chất liệu tơ mềm làm nền cho những vệt màu lấm chấm, những đợt sóng phóng túng của cây cọ hợp thành một dạ hội của màu sắc Đông - Tây. Những màu sắc ấy vẫn còn vương lại trên nền trời những bức ảnh chụp cầu Long Biên, ở đó hằn lên bóng dáng của người đàn bà Việt Nam đang đạp hoặc đẩy những chiếc xe đạp thồ, với những chiếc nón, khăn trùm đầu giống nhau mà không đơn điệu.

Có lúc, vì ống kính chĩa từ trên cao xuống, ba người đàn bà bán bánh mì (thực ra là chỉ có 1, lặp lại ở 3 vị trí), nên hình ảnh đập vào mắt ta trước tiên là cái đầu bị khuất dưới thúng bánh trùm bao tải tùm lum, phía dưới là thân hình khẳng khiu, khiến họ giống như ba cái nấm di động dọc theo mấy nhịp kép của cây cầu - một dãy hình chữ V ngược, vốn được hiểu như sự cách điệu hoá "những đợt sóng dồn", hay "thân con rồng uốn mình trên nền trời Thăng Long" (lời của nhà sử học Dương Trung Quốc nói về cây cầu).

Có tấm ảnh còn chụp lại nét hóm hỉnh của một tấm biển trên cầu, dòng chữ cảnh báo: "Có điện 3 pha - Nguy hiểm" được ghi vòng quanh một gương mặt hình tròn vành vạnh với mắt miệng cũng là những hình chữ o vui vẻ, mà không phải là hình đầu lâu gạch chéo như quy ước thông thường của kí hiệu "Nguy hiểm"! Người cảnh báo không có mặt trong ảnh nhưng nữ nhiếp ảnh gia đã cho ta thấy nụ cười của anh ta.

Những lần đi đi lại lại từ Pháp tới Hà Nội, trong 17 năm qua, gần như lần nào Dominique cũng tới cầu Long Biên. Nhà trọ mỗi lần được chọn ở chỗ khác nhau (để biết hết băm sáu phố phường!) nhưng có một điểm đến không thay đổi trong lịch làm việc dày đặc của chị: cây Cầu của những ước mơ. Dominique luôn bị cuốn theo cảm hứng, nhưng làm việc rất kỹ.

Cuộc phỏng vấn của đài truyền hình năm ngoái được chị hẹn thực hiện trên nền sông Hồng, Bãi Nổi, cây cầu với những nhịp kép hình V ngược còn sót lại sau những trận bom Mĩ, "lưới mắt cá nhẹ buông dải đăng ten vươn lên chân trời" (Paul Doumer) nay đã rách nát… Trong khi làm việc này, bao giờ Dominique cũng đã tính toán trước để làm việc khác.

Giáo sư sử học P.Langlet cũng rất mê cầu Long Biên từng thắc mắc không hiểu vì sao mình cũng đã đi xe ôm tới chân cầu, mà lại bị chặn lại, không được lên cầu! Tôi nghĩ hẳn Dominique đã có tham khảo kinh nghiệm của dân "đi bụi"!... Ông giáo sư cười hóm hỉnh nhẹ nhàng: "Có ai lại ngố như tôi ấy!".

Tháng Tư năm nay, Dominique vừa có bài viết trên tờ báo Pháp của Hội Hữu nghị Việt - Pháp về bức tường đắp phù điêu bằng gốm chạy dọc theo 5km đường Âu Cơ, tựa vào đê sông Hồng, đang gấp rút hoàn thành để chào mừng 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Bài báo gọi công trình gốm sứ ấy là "Con đường giữa hiện tại và tương lai". Phần đầu thể hiện môtip trống đồng đã đắp xong. Phần thứ 2 miêu tả lịch sử Việt Nam.

Còn Dominique, chị được phụ trách 7 mét. Tôi hỏi chị định làm gì? Nhà nữ điêu khắc nói chị đã chọn đề tài Bảy ngày Sáng thế. Cứ một ngày là 1 mét. Dominique muốn thể hiện thời điểm "giác ngộ" hoặc "đốn ngộ" (chuyển dịch sang tiếng Việt bằng thuật ngữ cách mạng hoặc Phật giáo - tương đương với những từ "prise de conscience" của Pháp, hẳn là chưa đạt). Chị trích lời của Kinh Thánh: "Và lời đã thành da thịt". Lời cũng là hành động, là sáng tạo.

Vào tháng Hai, mùa xuân năm Trâu, để sang Bát Tràng làm chất liệu gốm, trong những ngày mưa dầm dề, chị vẫn sáng đi tối về bằng xe buýt. Chị nói với tôi: "Dân làng nghèo lắm". Đi chơi đối với Dominique là làm việc. Trên du thuyền vịnh Hạ Long, Dominique dậy sớm tinh mơ, để lặng lẽ chụp được giây phút đẹp nhất của mặt trời mới mọc. Chị vẫn đi thăm lại những ngôi chùa của vùng Bắc Ninh, và lần gần đây, chị cùng Giáo sư sử học P.Langlet đàm đạo rất lâu với Đại Đức tiến sĩ Phật học Thích Đức Thiện, trụ trì chùa Phật Tích.

Giờ đây, đọc câu chị viết ở bài báo mới ra mắt, tôi hiểu thêm về hiệu quả của những chuyến du xuân ấy: Và chúng tôi, những kẻ mạo hiểm trên bức phù điêu đang tìm đường phát hiện lịch sử (của Việt Nam. Đ.A.Đ), bằng cách đi thăm chùa chiền, di chỉ khảo cổ..., những chuyên gia ở lĩnh vực khác.

Tôi đã nhầm khi tưởng rằng đề tài Sáng thế là tây, không phải ta. Dominique nói nó có tính toàn nhân loại. Hẳn không chỉ vì tư tưởng, triết lí của nó, mà tôi - kẻ vô thần - còn quên rằng Gia Tô giáo đã chiếm vị trí như thế nào trong đời sống của những tín đồ người Việt - và đó cũng là lịch sử, là hiện tại. Dominique đã làm xong mô hình cho Bảy ngày: 1- Chúa bay liệng trên mặt nước. 2- Tạo ra chân trời: ngăn cách giữa nước và không khí. 3- Tạo ra đất và cây cỏ. 4- Tạo ra mặt trời và mặt trăng. 5- ... Loài vật. 6- ... Con người, nhân loại. 7- Chúa nghỉ ngơi... Quả là nếu có một niềm vui đầu tiên Chúa mang lại cho con người, ấy là sáng tạo.

Khi sang Pháp năm 2006, vì tôi ở trong căn nhà đồng thời là xưởng vẽ của Dominique, nên thi thoảng chị mới ghé tới làm việc với mấy chiếc máy tính, thu thập thông tin, dự kiến công việc của Hội Hữu nghị Pháp - Việt. Chị cũng không mấy khi ở nhà riêng (tại một khu phố khác). Vội vã, luôn vội vã. Có một lần tôi gặp hai vợ chồng chị cùng tới thăm viếng bạn bè, từ năm 1981. Chị nói công việc cũng khiến anh luôn đi ra nước ngoài. Một trí thức đẹp vẻ quý phái (có thể tôi bị ấn tượng vì tiểu từ De, dấu hiệu quí tộc của dòng họ, dẫu điều này đã bị thay thế bằng quý tộc do đồng tiền, từ thế kỉ XIX thời Balzac...).

Tôi hỏi vì sao lại quyết định tới Việt Nam, Dominique nói thoạt tiên chỉ là một chuyến du lịch, sau khi không còn gánh vác việc trông nom người mẹ già bị mất trí, ba cô con gái của chị đều đã lớn, và thu thập được hơn 3.000 đô... Chị vẽ vị trí của căn phòng trọ đầu tiên năm 1992, với những tên phố Việt Nam lân cận, rất chính xác. Có lần, chị đã trọ trong một khách sạn có gái gọi (chuyện thường tình bây giờ! Nhưng vào thời ấy, đối với Dominique, và cả đối với ta)...

Chị phát âm khá đúng tên những người Việt đã giúp chị triển lãm lần đầu: Đình Quang (Thứ trưởng Bộ Văn hoá thời ấy), Thuỷ ở Viện Văn học, Đàm ở Thư viện Quốc gia (không quên nói thêm: chị ấy rất xinh). Là nghệ sĩ, Dominique rất chú ý tới cái Đẹp.

Tôi hỏi vậy cảm tưởng đầu tiên của Dominique khi đặt chân tới Việt Nam? - Rất ấn tượng khi máy bay sắp hạ cánh, nhìn thấy những khúc lượn quanh co của sông Mêkông, những mảnh ruộng bé tí, và nhất là những lớp mây dày ở dưới chân. Sông và ruộng thì tôi hiểu, ruộng Tây rộng bát ngát, ruộng ta thì đã muốn phá bờ vào thời hợp tác xã, nông trường, nhưng bây giờ đất chật người đông, chia nhỏ hơn bao giờ hết, đâu còn chuyện thẳng cánh cò bay... Nhưng sao Dominique lại ngạc nhiên vì những đám mây dày lớp lớp nhỉ? - Pháp là nước ôn đới, mây không như thế. À ra vậy! Thế mà tôi không hề để ý.

Tất cả, ở Dominique, là hình ảnh. Lần tới chùa Tó trong chuyến du xuân vừa rồi, nhìn thấy bà sãi quét chùa, chị bảo: Ta đã gặp nhau rồi. Chị bạn Việt Nam đi cùng chuyến trước ngạc nhiên, vì bản thân chị đã không thể nhận ra người này. Dominique bảo: Tôi nhớ bằng hình ảnh. Nhìn bà già, mặc áo màu tím đỏ hết sức chân phương, màu tím của loại thuốc nhuộm ta ngày xưa, đang cười hết cỡ phô cả răng lẫn lợi, Dominique vui vẻ bảo: Bà đẹp lắm!

Ý thức săn tìm hình ảnh, cái đẹp khiến ngồi trên xe ôtô chị cũng không yên. Những con đường Hà Nội bụi mù, nhưng thật lạ, bằng lăng trổ hoa, hoa nhiều hơn lá. Rồi hoa ban dịu dàng trên những con phố nhỏ và yên tĩnh hơn. Chị chưa bắt được hoa sưa - một thứ hoa nở chớp nhoáng.

Giờ đây, Dominique phấn khởi thông báo với các bạn Pháp về dự án bức tường gốm của nhóm do Nguyễn Thu Thuỷ chủ trì đang mở ra những viễn cảnh hoạt động văn hoá mới, trước hết là một cuốn phim 3D cho Thăng Long thành cổ và lịch sử triều Lý.

Dominique rất thích những công việc một hòn đá nhắm trúng hai đích (thành ngữ Việt Nam cũng có hình ảnh mũi tên trúng hai đích). Chị đã cùng họ đi thăm vùng di tích ở Ba Đình, giới thiệu trên báo bức ảnh xác máy bay B52 cắm giữa cái hồ nhỏ, như một con chim sắt khổng lồ gãy cánh, và chị còn hứa: Số báo tới sẽ nói tiếp về tập phim và con đường đắp phù điêu. Bởi vì tháng Năm này, chị lại bay tiếp Paris - Hà Nội.

Lần khai trương triển lãm Cây cầu của những giấc mơ, Dominique mặc bộ đầm mà nửa trên là chiếc bolero, trùm ra ngoài là một tấm khăn lụa tơ tằm màu vàng hoàng tộc: trang phục cũng là chiếc cầu nối Đông Tây.

Mỗi lần gặp, tôi lại ngạc nhiên về sức sống tràn trề ở người nữ nghệ sĩ ấy, nó không hề hao hụt theo năm tháng. Đó là cái làm nên tuổi trẻ - điều mà người sáng tạo không thể thiếu. Vội vã trở về, vội vã ra đi... Tôi chợt thấy thèm cảm giác thiếu hụt thời gian ở chị

Đặng Anh Đào
.
.
.