Không có ai thay thế được ai

Thứ Sáu, 11/03/2005, 07:35

Trước sinh sản vô tính, quả thực là nhân tính của con người đang bị đe dọa nghiêm trọng. Mọi sự đã muộn chưa? - Câu trả lời thực ra còn chưa rõ nhưng tất cả chúng ta đều cần nhận thức rằng, đã là con người thì không ai thay thế được ai, kể cả bằng phương pháp nhân bản.

Theo tin New York, Đại hội đồng Liên hợp quốc trong phiên họp ngày 8/3 đã thông qua với đa số phiếu nghị quyết cấm nhân bản người. Trong số 191 quốc gia thành viên chỉ có 34 nước chống lại nghị quyết này. 84 nước còn lại ủng hộ nghị quyết cấm áp dụng nhân bản vô tính đối với con người và 37 quốc gia bỏ phiếu trắng. Dư luận thế giới nhìn chung đều ủng hộ nghị quyết này.

Xét về khía cạnh khoa học thuần túy: Những thành tựu trong lĩnh vực nhân bản là bước tiến động trời nhất mà nhân loại được biết đến. Các nhà khoa học đã thành công trong việc tiến hành quá trình sinh sản vô tính ở cả những động vật cấp thấp lẫn ở loài gần với con người nhất.

Mọi sự đã bắt đầu tại phòng thí nghiệm Roslin ở xứ Scotland (Anh quốc) năm 1996. Chính tại đó, các nhà khoa học đã nhân bản thành công bằng phương pháp sinh sản vô tính chú cừu Dolly. Nhìn từ một góc độ, chúng ta có quyền hy vọng rằng, với phương pháp sinh sản vô tính, nhân loại có thể tùy ý tạo cho mình những sinh vật mang những đặc tính có lợi  nhất cho con người. Tỷ dụ như những loại kháng thể hay protein đặc biệt nhất với công dụng siêu phàm, loài bò sữa thơm và bổ nhất, thậm chí có thể cả những con voi mà nấu một miếng nước xáo cũng ngon, khác giống voi bây giờ mà nấu cả trăm con cũng chẳng lấy nổi một bát nước xáo... Thậm chí, theo lời của nhà khoa học, "tác giả" của con cừu Dolly, có thể tạo ra cho mỗi con người đang sống một bản sao y hệt như thế rồi "hóa kiếp" bản sao đó và ướp lạnh làm "kho dự trữ" các bộ phận trong cơ thể, phòng khi cần đến để thay thế...

Thành công khoa học đó quả thực đã mở ra trước nhân loại những khả năng gần như siêu phàm và không ngẫu nhiên mà nó lập tức được coi như một tin gây chấn động thế giới.

Thế nhưng, nhìn từ khía cạnh nhân văn, đấy quả thực là một mối đe dọa khủng khiếp với những hậu quả lớn tới mức không thể lường trước được. Ai cũng biết, khỉ là giống vật có những đặc tính về gen chẳng khác biệt mấy so với con người và việc chuyển thí nghiệm từ khỉ sang người dường như là một việc dĩ nhiên không quá khó làm. Con người lúc đó như một "siêu Phạm Nhan" không còn là "độc nhất vô nhị" và mạng sống cũng chẳng là cái quý báu nhất. Vậy nghĩa là, với phương pháp sinh sản vô tính, nhân tính đã và đang phải đối mặt với những vấn đề mới rất căn bản trong nhân sinh quan và thế giới quan.

Thực ra, trong suốt quá trình tiến hoá và phát triển của mình, nhân loại luôn luôn chịu sự chi phối của hai ước muốn mãnh liệt. Một mặt, con người ngay từ đầu đã sớm biết quy thuận Đấng tự nhiên và lập ra các tôn giáo như những niềm an ủi lớn lao cho mình trong cuộc sống quá ngắn ngủi, cam go và bất trắc. Mặt khác, khi kho tàng tri thức tự nhiên và xã hội càng phát triển, những đầu óc tinh tuý nhất của nhân loại luôn khát vọng chinh phục thiên nhiên, tận dụng các quy luật của thiên nhiên để phục vụ cho cuộc sống của con người.

Bằng những thành tựu văn minh và các tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhân loại đã chứng minh được tính hơn hẳn của mình so với muôn loài cùng tồn tại trên trái đất và có lẽ cả ở trong khoảng vũ trụ mà đến nay, con người đã nhìn thấy được. Có thể nói không ngoa rằng, con người với trí tuệ thiên phú vô biên càng ngày càng gia tăng quyền lực của mình trong sáng tạo, không chỉ trong lĩnh vực xã hội hay văn học nghệ thuật, mà cả trong tự nhiên. Hiểu theo cách này, thành công về sinh sản vô tính là một kết quả tất yếu của những cố gắng nghiên cứu và thử nghiệm. Nhưng cũng chính thành công này hơn bao giờ hết đặt ra với tất cả sự nghiêm trọng và cấp thiết của nó vấn đề đạo đức và nhân văn của các phát minh khoa học.

Với thành công trong sinh sản vô tính, hơn bao giờ hết con người tiến lại gần với Đấng tự nhiên, nhưng cũng hơn bao giờ hết con người đối diện với nguy cơ tự tay mình phá bỏ toàn bộ nền móng những tiền đề mà trên đó, nền văn minh nhân loại đã được dựng nên một cách cần mẫn và khốn khó, với bao nhiêu mồ hôi và máu, trong mấy nghìn năm qua.

Có cảm giác như khoa học đã đi tới sát vực sâu vô đáy của chính nó. Một khi có thể tạo ra những con người hoàn chỉnh về mặt thể chất bằng phương pháp sinh sản vô tính, trên trái đất sẽ là một nhân loại hoàn toàn không cần đến bố mẹ và dòng tộc, sẽ chỉ là những cá thể tương tự y hệt nhau với những động thái tình cảm và tâm lý khó lòng biết rõ được. Các cơ sở của các nền triết học, cả Đông lẫn Tây, có nguy cơ bị hủy bỏ. Mọi tôn giáo đều sẽ trở nên vô nghĩa vì cõi thiêng liêng đã đồng nghĩa với chính phòng thí nghiệm.

Và có lẽ, khi phải đối diện với một thực tế phổ biến và không thể phủ nhận của những con người sinh sản vô tính, chúng ta - những "tàn dư" của nhân loại tự nhiên, có lẽ sẽ hóa dại vì không điều chỉnh tâm lý của mình thích ứng nổi...

Chính những nguy cơ này và cả những tai họa mà có thể hiện nay con người chưa ý thức được hết đã khiến tất cả nhân loại trong gần cả thập niên qua phải thận trọng trước một thành tựu khoa học kinh thiên động địa. Nhiều quốc gia đã nhận thức được rằng, để khỏi "đùa với lửa", việc cấp thiết hơn cả là phải lập ra những điều luật về đạo đức sinh học và cấm áp dụng sinh sản vô tính với con người. Nghị quyết mới nhất của Liên hợp quốc về việc cấm nhân bản người là một bước tiến bộ mới trên quy mô toàn cầu trong lĩnh vực này

.
.
.