Cảnh báo dấu hiệu mất an toàn tài chính tại một số doanh nghiệp

Thứ Hai, 01/04/2024, 08:34

Kiểm toán Nhà nước (KTNN) cho biết, thời gian qua, thông qua hoạt động kiểm toán đã ghi nhận những mặt tích cực, đồng thời cũng như chỉ ra những thiếu sót trong quản lý tài chính công, tài sản công tại các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước và các đơn vị thành viên. Trước cảnh báo từ KTNN, nhiều doanh nghiệp (DN) đã thẳng thắn tìm giải pháp khắc phục.

Số nợ khó đòi lên tới hàng trăm tỉ đồng

KTNN vừa công bố “bức tranh” tổng thể trong hoạt động kiểm toán năm 2022 về báo cáo tài chính năm 2021 và các hoạt động liên quan đến quản lý, sử dụng vốn nhà nước của 219 đơn vị thuộc 20 tập đoàn (TĐ), tổng công ty (TCT) và công ty. Theo cơ quan kiểm toán, trong giai đoạn này, có đến 19/20 TĐ, TCT, công ty sản xuất kinh doanh có lãi. Tuy nhiên, khi đi vào chi tiết, kết quả kiểm toán chỉ rõ, việc quản lý sử dụng vốn, tài sản của các DN còn nhiều hạn chế, bất cập.

Đáng chú ý, phần lớn các đơn vị còn sai sót trong việc hạch toán kế toán, kê khai nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước (NSNN). Qua kiểm toán, các đơn vị phải điều chỉnh tổng tài sản/tổng nguồn vốn tăng hơn 2.216 tỷ đồng. Đặc biệt, KTNN đã kiến nghị các TĐ, TCT, công ty phải tăng thu NSNN trên 1.411 tỷ đồng, giảm thuế giá trị gia tăng được khấu trừ 8,78 tỷ đồng.

Cùng với những bất cập nêu, cơ quan kiểm toán đã chỉ ra tình trạng quản lý nợ chưa chặt chẽ, còn để phát sinh nợ phải thu quá hạn, nợ khó đòi lớn, nợ tạm ứng tồn đọng nhiều năm chưa được thu hồi.

Cảnh báo dấu hiệu mất an toàn tài chính tại một số doanh nghiệp -0
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã có những biện pháp để nâng cao hiệu quả quản lý tài chính.

Theo kết quả kiểm toán, số nợ khó đòi tại Công ty mẹ - Vinafood1 được xác định lên tới 2.537 tỷ đồng và tại nhiều TĐ, TCT, số nợ khó đòi cũng lên tới hàng trăm tỷ đồng, như Công ty mẹ - Satra 430 tỷ đồng, TKV 279 tỷ đồng. Một số đơn vị phải trích lập dự phòng phải thu khó đòi rất lớn như: VNPT phải trích lập dự phòng 509 tỷ đồng; EVN phải trích lập dự phòng 367 tỷ đồng…

Đáng chú ý, KTNN đã cảnh báo một số DN có dấu hiệu mất an toàn về tài chính (trong đó có 3 DN thuộc Vicem và 6 DN thuộc Vinafood1), hoặc bị đưa vào diện giám sát tài chính đặc biệt (1 DN thuộc EVN) theo quy định tại Nghị định số 87/2015/NĐ-CP của Chính phủ. “Điểm danh” những DN có hệ số nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu cao,

KTNN nêu rõ: Vicem Tam Điệp có hệ số nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu lên tới 8,24 lần, Công ty CP Lương thực Yên Bái 6,22 lần, Công ty CP Lương thực Cao Lạng 5,66 lần, Công ty CP Xuất nhập khẩu lương thực - TP Hà Nội 3,91 lần. Cùng với đó là những DN được KTNN phát hiện có hoạt động cho vay chưa phù hợp quy định với số tiền rất lớn. Trong đó, Công ty CP Thủy điện Đa Nhim - Hàm Thuận - Đa Mi cho Công ty mẹ - TCT Phát điện 1 vay 799,9 tỷ đồng từ năm 2014-2015; Công ty CP Nhiệt điện Phả Lại cho EVN vay 350 tỷ đồng từ năm 2010, nhưng đến 28/12/2021, EVN đã hoàn thành trả nợ vay.

Kịp thời nhận diện, xử lý rủi ro tài chính

Theo đại diện Bộ Tài chính, nhìn chung, công tác cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại DNNN đã được đẩy mạnh nhưng vẫn chưa đạt được kế hoạch đề ra. Nguyên nhân do việc sắp xếp cơ sở nhà đất, vướng mắc về thủ tục, hồ sơ đất đai; các nhà đầu tư chưa thực sự quan tâm đến các thương vụ bán cổ phần lần đầu và thoái vốn của doanh nghiệp Nhà nước dẫn đến tình trạng tỷ lệ nắm giữ vốn Nhà nước tại các DN vẫn cao. Một số cơ quan đại diện chủ sở hữu và người đứng đầu DN còn chưa quyết liệt; việc rà soát, lập kế hoạch sắp xếp lại DN chưa được các cơ quan, đơn vị quan tâm đúng mức; công tác chuẩn bị cổ phần hóa, thoái vốn chưa tốt. Việc phối hợp giữa các cơ quan đại diện chủ sở hữu với các bộ, ngành, địa phương liên quan trong xử lý vướng mắc phê duyệt phương án sử dụng đất, xử lý tồn tại tài chính còn chưa tốt, kéo dài.

Nhìn thẳng vấn đề, ông Hoàng Gia Khánh, Tổng Giám đốc Tổng công ty Đường sắt Việt Nam cho hay, khuyến nghị kiểm toán đã giúp DN kịp thời nhận diện, xử lý rủi ro tài chính. Trên cơ sở ý kiến tư vấn, khuyến nghị của KTNN, Tổng công ty Đường sắt Việt Nam đã có những biện pháp để nâng cao hiệu quả quản lý tài chính tại Tổng công ty và các đơn vị thành viên thông qua 3 nhóm hoạt động.

Thứ nhất, Tổng công ty đã rà soát các quy chế, quy định từ cấp Tổng công ty đến các đơn vị thành viên, phát hiện các quy định trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo, hết hiệu lực hoặc không còn phù hợp với thực tiễn để kiến nghị cơ quan chức năng sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ văn bản. Từ đó khắc phục những bất cập tồn tại và tìm các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách phục vụ quản lý, điều hành của Tổng công ty…

Thứ hai, tăng cường kiểm tra, giám sát về tài chính đối với các công ty con, đơn vị phụ thuộc, không để xảy ra thất thoát vốn, tài sản Nhà nước; thực hiện công khai, minh bạch, đúng pháp luật trong đầu tư, quản lý tài chính, mua sắm, phân phối thu nhập. Đồng thời hoàn thiện cơ chế kiểm soát, kiểm toán nội bộ, thực hiện nghiêm túc chế độ giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động và công khai thông tin tài chính.

Thứ ba, nghiên cứu bổ sung các chỉ tiêu phản ánh tình hình huy động vốn như hệ số nợ; các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán như hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn, hệ số khả năng thanh toán ngay; các chỉ tiêu phản ánh hiệu suất sử dụng vốn như hiệu suất sử dụng vốn kinh doanh, vòng quay vốn lưu động; các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời như khả năng sinh lời hoạt động, khả năng sinh lời tài sản, khả năng sinh lời vốn chủ. Từ đó giúp nhận diện rủi ro tài chính của Tổng công ty và các đơn vị thành viên để có biện pháp điều hành, xử lý kịp thời.

Tương tự, theo ông Dương Mạnh Sơn, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), từ những khuyến nghị của KTNN, PVN đã và sẽ tiếp tục hoàn thiện, sửa đổi và bổ sung kịp thời hệ thống các văn bản quy định nội bộ trong lĩnh vực tài chính để triển khai và áp dụng đồng bộ từ PVN đến các DN có vốn góp của PVN. PVN cũng kiến nghị các cơ quan chức năng có thẩm quyền xem xét, điều chỉnh hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực tài chính theo hướng ngày càng minh bạch, rõ ràng, tránh chồng chéo dẫn tới có quan điểm, cách hiểu khác nhau trong cùng một nội dung văn bản gây khó khăn cho DN trong việc tuân thủ các quy định của pháp luật. Đồng thời tăng cường tính hiệu quả, hiệu lực trong công tác tự kiểm tra, giám sát từ PVN tới các đơn vị thành viên.

P.Huyền
.
.
.