5 giải pháp thúc đẩy năng lực cạnh tranh quốc gia
- Hơn 100 trí thức ưu tú dự diễn đàn nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam
- Tìm giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh
- Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia: Nhiệm vụ “sống còn” của doanh nghiệp Việt
Quyết định tính năng suất của một quốc gia
Theo Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Vương Đình Huệ, năng lực cạnh tranh quốc gia là tổng hợp các thể chế, chính sách và nhân tố quyết định mức độ hiệu quả và tính năng suất của một quốc gia. Một nền kinh tế có năng suất, hiệu quả là nền kinh tế có năng lực sử dụng, khai thác tốt các nguồn lực có hạn. Nói cách khác, bản chất của năng lực cạnh tranh quốc gia là năng lực vận hành nền kinh tế có hiệu quả, với chi phí hợp lý nhất mang lại kết quả thịnh vượng và bền vững tối đa nhất.
Qua 30 năm đổi mới, năng lực cạnh tranh của Việt Nam có thay đổi và được cải thiện dần nhưng so với thế giới và kể cả khu vực ASEAN vẫn còn ở mức thấp. Theo báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu CGI, năm 2015, Việt Nam có thứ hạng 56/140 nền kinh tế, đạt 4,3/7 điểm, tăng 12 bậc so với năm 2014 và là thứ hạng cao nhất của Việt Nam giai đoạn 2006 - 2015.
Các lĩnh vực Việt Nam có thứ hạng thấp ở nửa cuối, trung bình và dưới trung bình gồm: Thể chế (85/140); Phát triển thị trường tài chính (84/140); Đào tạo và giáo dục sau tiểu học (95/140); Cơ sở hạ tầng (76/140); Trình độ kinh doanh (100/140), Sẵn sàng công nghệ (92/140), Đổi mới sáng tạo (73/140).
Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Vương Đình Huệ. |
Qua phân tích các bộ chỉ số, Ban Kinh tế Trung ương thấy rằng một số nhóm nhân tố cần phải tập trung phân tích, đánh giá và có giải pháp để cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam, gồm:
Một là, nhóm các nhân tố về thể chế kinh tế và thực thi thể chế kinh tế, gồm: (1) Các quy định pháp luật và thực thi pháp luật trong kinh doanh và cạnh tranh; (2) Vấn đề cải cách tư pháp; phòng, chống tham nhũng, cải cách hành chính công.
Hai là, nhóm các vấn đề kinh tế vĩ mô, gồm: (1) Tính bền vững môi trường kinh tế vĩ mô; (2) Thực trạng về năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam.
Ba là, nhóm các vấn đề tiếp cận nguồn lực và thị trường, gồm: (1) Phát triển các nguồn lực cơ bản phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; (2) Phát triển các yếu tố thị trường và các loại thị trường; (3) Năng lực hội nhập kinh tế quốc tế.
Bốn là, nhóm các vấn đề về phát triển doanh nghiệp và khởi nghiệp.
Năm là, nhóm các vấn đề liên quan đến lĩnh vực an ninh, an toàn cũng như các yếu tố xã hội như y tế và giáo dục.
Cũng theo Ông Vương Đình Huệ, sau 30 năm đổi mới, Việt Nam đã tích cực hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu. Việt Nam đã tham gia vào ba chuỗi giá trị có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế toàn cầu đó là: Chuỗi giá trị lương thực và an ninh lương thực; chuỗi giá trị năng lượng và an ninh năng lượng (dầu mỏ, khí, than) và chuỗi giá trị hàng dệt may và da giầy. Do vậy, việc đề ra các giải pháp thiết thực nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia là rất cần thiết nhằm tranh thủ hiệu quả cơ hội và lợi ích của các cam kết hội nhập quốc tế, góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và phát triển nhanh, bền vững.
5 nhóm giải pháp thúc đẩy năng lực cạnh tranh quốc gia
Trên cơ sở phân tích các nguyên nhân khách quan, chủ quan và các nhóm nhân tố chủ yếu nói trên, Ban Kinh tế Trung ương kiến nghị sớm xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện tốt Đề án tổng thể về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam với những nhóm giải pháp chủ yếu sau đây:
Một là, tăng cường thể chế và thực thi thể chế tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh và cạnh tranh, hoàn thiện cơ chế phối hợp đa ngành, đa lĩnh vực giữa Trung ương và địa phương, đẩy mạnh cải cách tư pháp, cải cách hành chính công, tăng cường công khai minh bạch và phòng, chống tham nhũng. Giải quyết đồng bộ việc ban hành và thực thi các quy định pháp luật về kinh doanh và cạnh tranh.
Hai là, tăng cường ổn định bền vững kinh tế vĩ mô, nâng cao năng suất lao động và đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp trong mô hình tăng trưởng theo hướng thúc đẩy ứng dụng khoa học, công nghệ và tăng cường đối mới sáng tạo. Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động quốc gia và sự đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp vào mô hình tăng trưởng theo hướng thúc đẩy ứng dụng khoa học, công nghệ, xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo.
Ba là, tăng cường tiếp cận nguồn lực và thị trường trong nước, thế giới, thúc đẩy mạnh mẽ liên kết trong nước và năng lực hội nhập quốc tế. Tập trung phát triển và tăng cường tiếp cận các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, đặc biệt là vốn, lao động, khoa học - công nghệ, cơ sở hạ tầng và tài nguyên. Thúc đẩy các động lực cạnh tranh lành mạnh và phát huy lợi thế so sánh của các địa phương, tăng cường liên kết ngành kinh tế, chủ thể kinh tế và không gian kinh tế, vùng kinh tế, nâng cao năng lực hội nhập quốc tế.
Bốn là, thúc đẩy phát triển mạnh mẽ các loại hình doanh nghiệp của Việt Nam, tăng cường khởi sự doanh nghiệp. Tạo lập môi trường pháp lý đảm bảo quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Ban hành Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa, Luật Công nghiệp hỗ trợ và các xây dựng chính sách phù hợp để hỗ trợ phát triển các loại hình doanh nghiệp; tăng cường hiệu quả thực hiện vai trò của Nhà nước trong định hướng phát triển hoạt động đầu tư - kinh doanh của doanh nghiệp theo cơ chế thị trường. Phát huy vai trò của các hội, hiệp hội doanh nghiệp.
Năm là, tăng cường kết nối khu vực và coi trọng các giải pháp phát triển bền vững. Xây dựng kế hoạch, triển khai hiệu quả Chương trình Nghị sự 2030 của Liên Hợp Quốc về phát triển bền vững.