Tháng 6, 7 cần 6,03 triệu tấn than cho sản xuất điện

Thứ Tư, 14/06/2023, 14:50

Trước thông tin “thiếu 1 triệu tấn than cho nhiệt điện” trên một số phương tiện thông tin đại chúng, chiều 14/6, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã thông tin cụ thể rõ hơn về việc cung ứng than cho nhiệt điện trong 2 tháng cao điểm nắng nóng.

Theo EVN, trong các tháng đầu năm 2023, sự phối hợp hiệu quả và nỗ lực cung cấp than của Tập đoàn Công nghiệp Than & Khoáng sản Việt Nam (TKV) và Tổng Công ty Đông Bắc đã góp phần quan trọng để EVN sản xuất, cung ứng điện cho phát triển kinh tế và phục vụ đời sống dân sinh. Đặc biệt, từ sau cuộc họp ngày 9/5/2023 giữa EVN, TKV và Tổng Công ty Đông Bắc, tất cả các tổ máy sử dụng antraxit đã vận hành tối đa theo yêu cầu của hệ thống, không có tổ máy nào ngừng/giảm công suất do thiếu than.

Theo kế hoạch cập nhật, sản lượng huy động các tháng 6, 7/2023 của các nhà máy nhiệt điện than, đặc biệt là các nhà máy điện khu vực miền Bắc sẽ được huy động ở mức công suất và sản lượng tối đa.

Cụ thể, tổng sản lượng dự kiến huy động các nhà máy điện sử dụng than antracite của EVN trong 2 tháng 6,7 là 12,33 tỷ kWh tương ứng với nhu cầu than cần sử dụng là 6,03 triệu tấn than.

Tháng 6,7 cần 6,03 triệu tấn than cho sản xuất điện -0
EVN đề xuất cấp bổ sung thêm 1 triệu tấn than ngoài khối lượng hợp đồng đã ký kết.

Do đó, vào đầu tháng 6 vừa qua, EVN đã tổ chức buổi làm việc với TKV và Tổng Công ty Đông Bắc để đề xuất 2 đơn vị này cấp bổ sung thêm 1 triệu tấn ngoài khối lượng hợp đồng đã ký kết để đảm bảo đủ than cho nhu cầu sản xuất điện trong tháng 6,7/2023.

EVN sẽ tiếp tục tích cực phối hợp với TKV và Tổng Công ty Đông Bắc tìm giải pháp cấp đủ than phục vụ sản xuất điện theo đúng tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.

Theo TKV, việc cấp than cho các nhà máy nhiệt điện (NMNĐ) cao điểm mùa khô (tháng 5-6/2023) đã được triển khai tích cực. Cụ thể, ngày 9/5/2023, lãnh đạo hai Tập đoàn TKV- EVN đã thống nhất với các NMNĐ BOT về việc giảm khối lượng tồn kho từ 14 ngày xuống 7 ngày, nhằm tăng khối lượng cung cấp cho các NMNĐ của EVN (giảm khối lượng giao than trong tháng 5 của BOT Hải Dương 60.000 tấn cám 6b.1 và BOT Vĩnh Tân 1 100.000 tấn cám 6a.1) để tăng khối lượng than PTNK (khoảng 220.000 tấn) cho các NMNĐ của EVN theo đề nghị của EVN.

Đồng thời, TKV cấp bổ sung 80.000 tấn cho các NMNĐ của EVN và sẽ được bù trừ vào các tháng mùa mưa của năm 2023. Trong tháng 5/2023, TKV đã thực hiện giao bổ sung cho các NMNĐ EVN khoảng 300.000 tấn.

TKV cam kết 6 tháng cuối năm sẽ đảm bảo cung cấp khoảng 18,7 triệu tấn. Cả năm dự kiến đạt 39,7 triệu tấn, tăng khoảng 15% so với cùng kỳ 2022 (tăng khoảng 4,7 triệu tấn). Cụ thể, theo đề nghị của của EVN tại cuộc họp ngày 9/5/2023, căn cứ vào khả năng TKV, kế hoạch tháng 6-7/2023, TKV sẽ cấp bổ sung cho các NMNĐ của EVN bình quân 10.000 tấn/tháng/nhà máy so với tiến độ quy định trong hợp đồng đã ký, đồng thời giảm khối lượng giao than trong tháng 6 của BOT Mông Dương 2 (giảm tồn kho) 40.000 tấn cám 6a.1 để tăng khối lượng than phối trộn nhập khẩu khoảng 50.000 tấn cấp bổ sung cho NMNĐ Thái Bình 1 30.000 tấn và Hải Phòng 20.000 tấn.

Ngoài ra, trong tháng 6, TKV đã tiến hành cung cấp cho NMNĐ Thái Bình 2 khối lượng 300.000 tấn, cao hơn cam kết theo hợp đồng đã ký (140.000 tấn) theo chỉ đạo của Chính phủ và Bộ Công Thương tăng cường hỗ trợ các NMNĐ phía Bắc.

Dự báo, nhu cầu than điện 6 tháng cuối năm 2023, theo nguồn huy động điện của A0-EVN (phương thức vận hành tháng 6/2023 và cập nhật các tháng còn lại trong năm 2023), nhu cầu than cho điện tăng cao đến hết tháng 7/2023 sau đó sẽ giảm trong các tháng mùa mưa và tăng trở lại từ tháng 11/2023.

TKV cho biết, theo tiến độ hợp đồng đã ký kết với các đơn vị, 6 tháng cuối năm, lượng than cung cấp khoảng 18,745 triệu tấn, cả năm dự kiến đạt 39,7 triệu tấn tăng khoảng 1,2 triệu tấn so hợp đồng (chủ yếu là do các NMNĐ BOT tăng khối lượng và khối lượng tăng thêm tháng 5,6,7/2023 các NMNĐ của EVN)

Căn cứ theo dự báo huy động điện và tình hình huy động các nguồn điện hiện nay của EVN, theo đó trong giai đoạn mùa khô EVN đã huy động thêm tối đa các NMNĐ dùng than nhập khẩu, tăng huy động nguồn điện NLTT,… mặc dù dự báo nhu cầu lấy than của TKV trong 6 tháng cuối năm cho sản xuất điện đạt khối lượng hợp đồng, có thể đạt tới mức tối đa + 5%. Kể cả trong trường hợp các nhà máy thủy điện có nước hoặc giá than nhập khẩu giảm về mức cạnh tranh với than trong nước thì các NMNĐ cũng sẽ thực hiện đủ khối lượng đã ký với TKV do hiện nay tồn kho tại các nhà máy rất thấp và khách hàng sẽ lấy than để có lượng tồn kho hợp lý gối đầu vào năm 2024.

Lưu Hiệp
.
.
.