Hàng hóa Việt Nam gia công xuất khẩu: “Vô danh” trên thị trường nội địa

Chủ Nhật, 23/12/2018, 08:43
Với lợi thế là quốc gia có chính trị ổn định, nguồn nhân lực trẻ dồi dào, chi phí nhân công rẻ, Việt Nam là điểm tìm kiếm những đơn vị gia công của nhiều công ty đa quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, đến thời điểm này, bên cạnh những mặt tích cực như tạo ra hàng triệu việc làm và đóng góp không nhỏ cho kim ngạch xuất nhập khẩu (XNK) thì chúng ta không khỏi chạnh lòng khi hàng hoá gia công được bán tại Việt Nam rất thấp, hầu như “vô danh” trên thị trường nội địa.

Theo kết quả Tổng điều tra kinh tế 2017 của Tổng cục Thống kê, trong năm 2016, cả nước có 1.740 doanh nghiệp thực hiện hoạt động gia công hàng hóa với nước ngoài. Tuy nhiên, hoạt động gia công của các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu vẫn là làm thuê cho các đối tác nước ngoài, bởi các doanh nghiệp Việt Nam chỉ hưởng phần phí (tiền công) từ việc gia công lắp ráp, phần lớn nguyên liệu đầu vào do đối tác nước ngoài cung cấp.

Hai ngành gia công chính của nước ta là dệt may và giầy dép, với doanh thu từ gia công 2 mặt hàng này chiếm trọng số trong hoạt động gia công, lắp ráp hàng hóa cho thương nhân nước ngoài của Việt Nam. Theo kết quả điều tra, trong năm 2016, hoạt động gia công hàng hóa với nguyên liệu đầu vào thuộc sở hữu nước ngoài mang về cho Việt Nam 8,6 tỷ USD tiền phí gia công.

Hoạt động gia công cho nước ngoài đã đem lại hiệu quả về mặt xã hội, góp phần giải quyết việc làm cho trên 1 triệu lao động trong các doanh nghiệp của năm 2016, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập cho người dân. Bên cạnh đó, hoạt động gia công còn có vai trò rất lớn đối với các doanh nghiệp trong việc học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước phát triển, tăng cường khả năng quản lý doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn.

Tuy nhiên, do nguyên liệu phục vụ cho gia công, lắp ráp phần lớn do phía nước ngoài cung cấp và sở hữu, do đó doanh nghiệp Việt Nam khó có thể chủ động trong quá trình sản xuất và chưa thực sự làm chủ được công nghệ, vì vậy giá trị gia tăng đem lại từ hoạt động này không cao. Tỷ lệ thu từ hoạt động gia công so với giá trị hàng hóa sau gia công đạt giá trị thấp. Kết quả điều tra cho thấy, trong năm 2016 tổng số tiền các doanh nghiệp Việt Nam thu được từ hoạt động gia công so với tổng giá trị hàng hóa sau gia công chỉ chiếm 26,4%. Mặt khác, hàng hóa sau gia công, lắp ráp bán tại Việt Nam chiếm tỷ lệ thấp. Theo kết quả điều tra, trong năm 2016 tổng giá trị hàng hóa sau gia công, lắp ráp với nguyên liệu đầu vào thuộc sở hữu nước ngoài đạt 32,4 tỷ USD, trong đó hàng hóa sau gia công, lắp ráp được bán tại Việt Nam là 1,3 tỷ USD, chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn với 3,9% tổng giá trị hàng hóa sau gia công, lắp ráp.

Giá trị hàng Dệt may sau gia công với nguyên liệu đầu vào thuộc sở hữu của đối tác Australia và Đài Loan được để lại tiêu thụ tại Việt Nam đạt giá trị cao nhất với 77 triệu USD và 65 triệu USD. Ảnh minh hoạ: Internet.

Có thể thấy kết quả tổng điều tra kinh tế năm 2017 đã phản ánh khá rõ nét bức tranh về hoạt động gia công hàng hóa với nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam. Để hoạt động này mang lại hiệu quả hơn, tạo ra giá trị tăng cao hơn cho nền kinh tế đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước cần tận dụng tốt cơ hội từ các hợp đồng gia công nhằm tiếp cận với trình độ quản trị, học hỏi kinh nghiệm và tiếp cận mẫu mã sản phẩm, công nghệ hiện đại từ các đối tác nước ngoài vì hầu hết các nước thuê gia công đều là các quốc gia phát triển, có kỹ năng quản lý, điều hành, quản trị tốt và trình độ công nghệ cao.

Đồng thời, các doanh nghiệp Việt Nam cần gắn kết với nhau tạo chuỗi giá trị cung ứng nguồn nguyên liệu đầu vào phục vụ cho quá trình gia công, lắp ráp, nhằm nâng cao tỷ lệ nội địa hóa. Bên cạnh đó, Chính phủ cần có chính sách phù hợp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động trong chuỗi cung ứng nguồn nguyên liệu đầu vào phục vụ cho quá trình gia công, lắp ráp hàng hóa, tạo đà cho các doanh nghiệp trong nước phát triển.

Phan Đức
.
.
.