Quyền tự do tín ngưỡng trong Hiến pháp 2013
Theo luật pháp quốc tế, quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo bao gồm các vấn đề: Tự do có, theo hoặc thay đổi một tôn giáo hay tín ngưỡng do mình lựa chọn; tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong cộng đồng với những người khác, công khai hoặc không công khai dưới các hình thức như thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và truyền giảng. Ở Việt
1, Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một quyền cơ bản của công dân
Theo dòng chảy của lịch sử, Việt
Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, không một tôn giáo nào hoạt động đúng pháp luật mà bị ngăn cấm. Người có tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt
2, Nhà nước có trách nhiệm tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Pháp luật của Nhà nước ta một mặt thừa nhận và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, mặt khác nghiêm cấm các hành vi lợi dụng tôn giáo gây phương hại cho lợi ích xã hội, lợi ích người khác, hoặc chia rẽ sự đoàn kết giữa những người có đạo với người không có đạo hoặc giữa những người có đạo với nhau nhằm đảm bảo cho tôn giáo hoạt động lành mạnh, tốt đời đẹp đạo, sống phúc âm giữa lòng dân tộc. Khoản 2, 3 Điều 24 Hiến pháp 2013 quy định rõ: “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do, tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Theo đó, mọi hành vi chia rẽ người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, chia rẽ các tín đồ tôn giáo với chính quyền nhân dân, với các tổ chức xã hội sẽ bị xử lý và tuỳ theo tính chất mức độ vi phạm mà tiến hành áp dụng các hình thức xử lý thích hợp, cao nhất là xử lý hình sự. Nhà nước Việt Nam chống mọi hành vi xâm phạm tự do tín ngưỡng tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để làm trái chính sách pháp luật của Nhà nước, cấm những hành vi xâm phạm tự do tín ngưỡng tôn giáo và các hành vi lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo, gây chia rẽ tôn giáo, chia rẽ dân tộc, gây mất đoàn kết trong nhân dân vv...
Với tinh thần cởi mở, thông thoáng, hệ thống pháp luật của Việt Nam về lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo, một mặt đã đáp ứng yêu cầu đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, mặt khác xác định yêu cầu quản lý nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Qua đó, thể hiện đầy đủ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước ta đến lợi ích chính đáng của công dân có tín ngưỡng, tôn giáo và thể hiện thái độ nghiêm khắc đối với các hành vi vi phạm pháp luật về tôn giáo như nghiêm cấm việc xâm phạm các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, ép buộc công dân theo tôn giáo hoặc bỏ tôn giáo mà họ tin theo hoặc lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hoà bình, độc lập, thống nhất đất nước... và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác. Sự ghi nhận quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong Hiến pháp 2013 một lần nữa khẳng định chính sách nhất quán tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; tạo môi trường pháp lý quan trọng cho các tổ chức tôn giáo hoạt động; thích ứng với những điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết hoặc gia nhập trong lĩnh vực tôn giáo; đồng thời, là bước tiến quan trọng trong việc xây dựng mối quan hệ ổn định, bền vững giữa Nhà nước và các tổ chức tôn giáo.
Có thể nói, Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện tinh thần đổi mới và thể hiện được ý Đảng, lòng dân, phản ánh được nguyện vọng của đại đa số nhân dân, thể hiện tinh thần dân chủ, đổi mới, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, trong đó chế định liên quan đến quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo có một vai trò, vị trí quan trọng