Trung Quốc chiếm đóng và quân sự hoá các đảo đá, đe doạ hoà bình trên Biển Đông

Thứ Sáu, 01/11/2019, 07:07
Ngày 30-10, Chủ tịch Hội Luật quốc tế Việt Nam (VSIL) Nguyễn Bá Sơn đã phản hồi lại thư của Chủ tịch Hội Luật quốc tế Trung Quốc (CSIL) Hoàng Tiến về những vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam của nhóm tàu Hải Dương 8.

Theo đó, Chủ tịch VSIL bác bỏ hoàn toàn việc ông Hoàng Tiến cho rằng, từ những năm 1970, Việt Nam “từng bước chiếm đóng một cách phi pháp một số đảo và bãi ngầm” thuộc quần đảo Trường Sa và đó là “nguyên nhân gây ra tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và Việt Nam”.

“Từ thế kỷ 17, các Chúa Nguyễn đã thực thi chủ quyền của Việt Nam thông qua việc cử các đội Hoàng Sa - Bắc Hải ra khai thác hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tiếp theo, các Hoàng đế nhà Nguyễn đã cử các đội hải quân ra vẽ bản đồ, cắm cột mốc chủ quyền trên hai quần đảo này... Trong giai đoạn chủ nghĩa thực dân thống trị, nước Pháp thay mặt cho Việt Nam quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sau đó, Việt Nam Cộng hòa tiếp quản và quản lý hai quần đảo này từ nước Pháp theo quy định của Hiệp định Geneva năm 1954. Việc tiếp quản quần đảo Trường Sa vào mùa xuân năm 1975 và những hoạt động bình thường của Việt Nam trong khu vực quần đảo Trường Sa sau khi đất nước đã hòa bình, thống nhất là hoàn toàn phù hợp với luật quốc tế và không có một quốc gia nào phản đối, kể cả Trung Quốc, thì sao có thể nói là “phi pháp” được?” – ông Nguyễn Bá Sơn đặt câu hỏi cho người đồng cấp Trung Quốc.

Ngược lại, Chủ tịch Hội luật quốc tế Việt Nam cũng chỉ rõ, vào các năm 1974 và 1988, với những hành động bị luật quốc tế nghiêm cấm, phía Trung Quốc đã dùng vũ lực chiếm đóng một số đảo và thực thể (đảo đá, bãi cạn) trong khu vực hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Việc Trung Quốc chiếm đóng, rồi từ đó đến nay, từng bước xây dựng các đảo nhân tạo và quân sự hoá một cách bất hợp pháp một số đảo đá và bãi cạn thuộc khu vực quần đảo Trường Sa mới chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình hình căng thẳng, đe dọa hòa bình và ổn định tại Biển Đông và trong khu vực.

Ông Sơn “truy vấn”: “Chẳng lẽ những hành động bị các quốc gia trên thế giới và Việt Nam lên án đó lại có thể gọi là hợp pháp và tạo thành cơ sở cho phía Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ đối với hai quần đảo và rồi sử dụng nó để đòi hỏi một vùng biển rộng lớn chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam được xác lập phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS)?”.

Chủ tịch VSIL nhấn mạnh, với việc từ chối tham gia vụ kiện trọng tài Biển Đông với Philippines và tuyên bố không công nhận giá trị ràng buộc của Phán quyết của Tòa Trọng tài theo Phụ lục VII UNCLOS, chính phía Trung Quốc đã vi phạm nguyên tắc chấp thuận mà quốc gia với tư cách là thành viên UNCLOS cần tuân thủ. 

Ông Nguyễn Bá Sơn cho rằng, bằng việc phê chuẩn UNCLOS, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã thể hiện sự chấp thuận của quốc gia mình đối với các nghĩa vụ pháp lý quốc tế được quy định trong Công ước, bao gồm việc chấp nhận thủ tục tài phán bắt buộc, công nhận và thực hiện Phán quyết mang tính chất chung thẩm và ràng buộc ngày 12-7-2016 mà Toà Trọng tài đã tuyên.

Tàu Hải Dương 8 và tàu hộ tống đang khảo sát phi pháp tại khu vực bãi Tư Chính của Việt Nam. Ảnh: Ngư dân cung cấp

Liên quan đến việc áp dụng nguyên tắc đất thống trị biển, Toà Trọng tài trong vụ kiện Biển Đông, trên cơ sở phân tích một cách khách quan và khoa học, đã đưa ra kết luận rằng không có bất kỳ thực thể luôn nổi nào tại khu vực quần đảo Trường Sa đáp ứng các điều kiện theo quy định tại Điều 121 UNCLOS để có quyền có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của riêng mình. Điều này có nghĩa rằng các thực thể luôn nổi thuộc quần đảo này chỉ có thể có tối đa lãnh hải 12 hải lý. Các thực thể giữa biển, nằm dưới mặt nước biển khi thủy triều lên không phải là đảo, không có vùng biển xung quanh.

Ông Nguyễn Bá Sơn cũng trích dẫn kết luận của Tòa Trọng tài rằng không một quốc gia nào có quyền yêu sách vẽ đường cơ sở quần đảo bao quanh quần đảo Trường Sa và xem quần đảo Trường Sa là một thực thể đơn nhất có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng, vì nhóm đảo này không đáp ứng các điều kiện để có đường cơ sở quần đảo theo quy định tại Điều 47 của UNCLOS hoặc đường cơ sở thằng theo quy định tại Điều 7. 

Khu vực mà Trung Quốc gọi là “Bãi Vạn An” hoàn toàn chìm dưới mặt nước biển, thuộc thềm lục địa Việt Nam và không liên quan gì đến quần đảo Trường Sa, nơi các thực thể không có thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế như Tòa Trọng tài đã phán xử.

Như vậy, việc tồn tại tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Trường Sa không thể dẫn đến việc phát sinh bất kỳ sự chồng lấn nào giữa vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được tính từ bờ biển lục địa của Việt Nam, với lãnh hải của bất kỳ thực thể luôn nổi nào thuộc quần đảo Trường Sa. 

Liên quan đến hai văn kiện chính trị song phương và đa phương là “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa” và “Tuyên bố ứng xử trên Biển Đông giữa các nước ASEAN và Trung Quốc” (DOC), Chủ tịch VSIL cho rằng “đàm phán và hiệp thương hữu nghị” là biện pháp ưu tiên trong việc giải quyết hoà bình mọi tranh chấp, bất đồng giữa các quốc gia.

"Với tư cách là một chuyên gia luật quốc tế, tôi có thể khẳng định rằng không có bất kỳ nội dung nào trong hai văn kiện này, cũng như trong bất kỳ thoả thuận nào giữa Việt Nam và Trung Quốc có thể được giải thích như là sự hạn chế quyền của mỗi nước chúng ta được tự do lựa chọn bất kỳ biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp nào khác đã được luật pháp quốc tế công nhận và cho phép một cách rõ ràng, đặc biệt là Hiến chương Liên hợp quốc (Điều 33) và UNCLOS", ông Nguyễn Bá Sơn tuyên bố.

Tiên An
.
.
.