Vụ án Thái Lương Trí “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, “Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan tổ chức”:

Hai cấp tòa, 8 lần hoãn xét xử

Thứ Năm, 24/10/2013, 13:27
Ở cấp sơ thẩm, tòa án phải hoãn xét xử 4 lần. Và rồi, ngày 5/7/2011, TAND TP Hà Nội cũng mở được phiên sơ thẩm, kết tội Thái Lương Trí 23 năm tù giam cho các tội “Lạm dụng dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, “Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan tổ chức”. Sau hơn 2 năm xét xử sơ thẩm, vụ án vẫn đang ở giai đoạn xét xử phúc thẩm và “mới” hoãn xét xử “có” 4 lần. Việc làm này vi phạm quy định pháp luật đã được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành.
>> Chi 100.000 USD cho một bữa ăn?

Giả dối với đối tác nước ngoài

Thái Lương Trí, sinh năm 1940 tại Nghệ An. Công ty TNHH Thái Dương do Trí làm Giám đốc thành lập năm 1996 có trụ sở tại thành phố Vinh. Sau 7 lần thay đổi Giấy phép kinh doanh, ngày 1/3/2007, Sở Kế hoạch Đầu tư (KH&ĐT) tỉnh Nghệ An cấp giấy phép kinh doanh khai thác, chế biến lâm sản, khảo sát thăm dò và mua bán khoáng sản.

Trước đó, ngày 12/11/2004, Trí ký hợp đồng số 02/2004 TD với ông Oong Khăm Sivilay (quốc tịch Lào), Giám đốc Công ty Khai thác khoáng sản Thảo Oong Khăm (gọi tắt là Công ty Thảo Oong Khăm), trụ sở ở huyện Mương Pẹc, tỉnh Xiêng Khoảng, CHDCND Lào. Trong thỏa thuận, phía Việt Nam góp vốn 100% giá trị hợp đồng gồm máy móc, thiết bị, tiền mặt. Phía Lào lấy dự án thăm dò làm tài sản thay thế vốn góp, đồng thời chịu trách nhiệm về toàn bộ hồ sơ trình Chính phủ Lào xin cấp giấy phép thành lập công ty liên doanh. Phần lợi nhuận được chia theo tỷ lệ, phía Việt Nam 65%, phía Lào 35%.

Để có hồ sơ trình Bộ KH&ĐT Việt Nam cấp Giấy chứng nhận đầu tư nước ngoài, Trí cùng nhân viên của mình là Nguyễn Ngọc Bính soạn thảo hợp đồng số 07 ngày 15/6/2006. Trí ký tên, đóng dấu và giao Bính đưa sang Lào để ông Oong Khăm Sivilay ký tên, đóng dấu. Nhưng ông Oong Khăm Sivilay không ký vào bản hợp đồng này mà chỉ đóng dấu khống vào 3 tờ giấy khổ A4 rồi đưa cho Bính cùng bản hợp đồng trên. Khi nhận được bản hợp đồng số 07, biết rõ chữ ký trong hợp đồng không phải của ông Oong Khăm Sivilay nhưng Trí vẫn sử dụng để gửi bổ sung thành bộ hồ sơ trình Bộ KH&ĐT xin cấp Giấy chứng nhận đầu tư nước ngoài. Ngày 2/11/2006, Bộ KH&ĐT cấp Giấy chứng nhận số 08/BKH-ĐT trong đó công nhận Công ty TNHH Thái Dương liên doanh với Công ty Thảo Oong Khăm để thành lập Công ty Đại Phú tại Lào, thời hạn hoạt động của dự án 30 năm. Thực tế, không có Công ty Đại Phú được thành lập và hoạt động tại Lào. Lý do? Theo kết luận Giám định số 2103/C21 ngày 23/9/2009 của Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an đã xác định chữ ký trong bản hợp đồng 07 ngày 15/6/2006 được ký giả chữ ký của ông Oong Khăm Sivilay.

Thái Lương Trí trong phiên xét xử sơ thẩm năm 2011 của TAND TP Hà Nội. ảnh: Báo Xây dựng

Không chỉ thế, ngày 25/5/2007, ông Oong Khăm Sivilay có đơn gửi Chính phủ, Tổng cục Cảnh sát Lào kiện Trí về hành vi làm giả hợp đồng 07. Ngày 31/5/2007, Sở KH&ĐT tỉnh Hủa Phăn, Lào có thông báo đình chỉ hoạt động liên quan đến việc tìm kiếm, thăm dò tại mỏ Huội Chừn. Ngày 4/6/2007, Công an tỉnh Xiêng Khoảng ra Lệnh số 01 thụ lý vụ án, mở cuộc điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Xiêng Khoảng ra lệnh bắt Thái Lương Trí vì có hành vi làm giả hợp đồng, giả chữ ký.

Lật kèo đối tác trong nước

Trong lúc đang dính “án hình sự” ở Lào và dự án khai thác mỏ Huội Chừn có nguy cơ gãy gánh thì Trí gặp ông Đoàn Văn Huấn, Giám đốc Công ty Cổ phần dịch vụ dạy nghề Thái Dương (nay là Công ty cổ phần Tập đoàn Thái Dương) ở Hà Nội và bà Chu Thị Thành, Giám đốc Công ty TNHH Thiên Phú ở Nghệ An. Các bên bàn bạc rồi đi đến thống nhất, cùng góp vốn để thành lập công ty liên doanh với Công ty Thảo Oong Khăm để thăm dò khai thác quặng tại mỏ Huồi Chừn. Tính đến ngày 12/11/2007, bà Thành đã góp 12.006.860.300đ; tính đến ngày 5/2/2007, ông Huấn góp 10.958.380.000đ.

Do có thêm đối tác mới, cộng với sự giúp đỡ của ban, ngành chức năng nước bạn nên ngày 18/10/2007, Bộ Tư pháp Lào đã tổ chức hòa giải mâu thuẫn giữa Công ty TNHH Thái Dương với Công ty Thảo Oong Khăm và kết luận: hai công ty tiếp tục liên doanh, khai thác mỏ Huội Chừn theo tỷ lệ, phía Việt Nam 65%, phía Lào 35%.

Sau đó, giữa ông Trí và ông Oong Khăm Sivilay ký tờ trình số 99 ngày 24/10/2007 gửi Bộ KH&ĐT Lào xin xác nhận cổ đông mới và thay đổi cổ phần: Ông Trí 37%, ông Huấn 18%, bà Thành 10%, ông Khăm Oong Sivilay 35% và xin Bộ KH&ĐT Lào thành lập Công ty Cổ phần khoáng sản Việt - Lào (gọi tắt là Công ty Việt – Lào). Ngày 8/1/2008, Bộ KH&ĐT Lào cấp Giấy phép Đầu tư số 006-08 thành lập Công ty Việt - Lào theo đúng tên và tỷ lệ phần trăm mà các bên trình. Ngày 24, 25/1/2008, Hội nghị cổ đông Công ty Việt – Lào thông qua Điều lệ công ty, bầu ông Trí làm Chủ tịch HĐQT, ông Huấn làm Tổng Giám đốc, bà Thành làm Phó Tổng giám đốc.

Thế nhưng, ông Trí đã không làm đúng như cam kết. Bản án sơ thẩm chỉ rõ: “Sau khi có Giấy phép đầu tư số 006-08 của Bộ KH&ĐT Lào, Trí thấy thời kỳ khó khăn của dự án đã qua, lợi ích từ việc khai thác mỏ Huội Chừn rất lớn, nếu căn cứ vào thỏa thuận tại Hợp đồng số 01/2005 và thỏa thuận trả một số cổ phần cho các doanh nghiệp khác khi huy động vốn của họ thì cổ phần của Trí trong Công ty Việt – Lào hầu như không còn, trong khi Trí và gia đình đã đầu tư nhiều công sức vào dự án mỏ nên Trí này sinh ý định chiếm đoạt cổ phần và tài sản của ông Huấn, bà Thành… Trí đã thực hiện một loạt thủ đoạn gian dối như mượn cổ phần để được làm Chủ tịch HĐQT, dùng quyền để tạo ra mâu thuẫn nội bộ, tự xưng là giám đốc công ty để làm thủ tục giấy phép đăng ký kinh doanh, xin giấy phép, khắc dấu; tự ý chỉ đạo Dương Minh Hải soạn thảo tờ trình gửi Bộ KH&ĐT thành lập Công ty Việt – Lào, loại tên cổ đông sáng lập là ông Huấn, bà Thành. Ngày 8/12/2008, Bộ KH&ĐT cấp giấy phép số 157 cho Công ty Việt – Lào do Trí là đại diện Việt Nam, ông Oong Khăm Sivilay đại diện phía Lào…  Hành vi gian dối này nhằm chiếm đoạt toàn bộ cổ phần và tài sản mà ông Huấn, bà Thành đã đầu tư vào Công ty Việt – Lào... 

Qua xét xử, tòa tuyên phạt Thái Lương Trí 23 năm tù giam. Dương Minh Hải 17 năm tù giam. Trí kêu oan và viết đơn kháng cáo. Tuy nhiên, điều đáng nói là dù kháng cáo, nhưng 4 lần TANDTC phải hoãn phiên xét xử phúc thẩm bởi những lý do chủ yếu từ phía Trí và luật sư của mình đưa ra

Cao Hồng
.
.
.