Đề xuất đếm túi nilon để đánh thuế

Chủ Nhật, 19/02/2017, 08:28
Trong văn bản góp ý gửi Bộ Tài chính về việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thuế bảo vệ môi trường (BVMT), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cho rằng, thuế bảo vệ môi trường là một dạng công cụ kinh tế nhằm điều chỉnh hành vi của người dân và doanh nghiệp trong việc sử dụng một số loại hàng hóa có nguy cơ gây tác động xấu đến môi trường.

Tác động môi trường của việc sử dụng túi nilon nói riêng hay các sản phẩm nhựa nói chung đã rất rõ ràng. Sản phẩm thay thế túi nilon như túi giấy hoặc các loại vật đựng dùng nhiều lần cũng khá phổ biến. Do đó, việc điều chỉnh mức thuế đối với túi nilon là có cơ sở.

Theo kinh nghiệm quốc tế, nhiều nước trên thế giới đang áp dụng mức thuế BVMT cao hoặc cấm sản xuất, bán, sử dụng túi nilon. Cụ thể như ở Anh: 15 cent/túi, tương đương 4.500 đồng/túi; Ailen: 15 cent/túi, tương đương 4.500 đồng/túi; Hồng Kông: 0,05USD/túi, tương đương 1.050 đồng/túi; Estonia đang dự kiến thu thuế đối với túi nilon ở mức 2 kroons/túi, tương đương 3.000 đồng/túi. Một số nước khác còn cấm sản xuất, bán, sử dụng túi nilon mỏng, ví dụ như Trung Quốc cấm sản xuất, bán, sử dụng túi nilon có độ dày nhỏ hơn 0,025mm.

Phương pháp đánh thuế dựa trên số lượng túi nhằm đạt được hiệu quả BVMT cao hơn.

Tuy nhiên, khung và mức thu thuế BVMT đối với túi nilon của Việt Nam thấp so với các nước trên thế giới nên chưa có tác động nhiều tới hạn chế việc sản xuất, sử dụng túi nilon. Cụ thể, Luật Thuế BVMT quy định biểu khung mức thuế tuyệt đối đối với túi nilon từ 30.000 đồng/kg - 50.000 đồng/kg, mức thuế hiện hành là 40.000 đồng/kg (tương đương khoảng 200% giá bán hiện hành, nhưng 1kg túi nilon có thể có từ 100 - 200 túi, nghĩa là thuế BVMT chỉ thu khoảng 200 - 400 đồng/túi). Nếu tăng mức thuế BVMT đối với túi nilon lên mức trần 50.000 đồng/kg thì cũng chỉ tương đương từ 250 - 500 đồng/túi.

Kinh nghiệm của nhiều quốc gia khác cũng cho thấy việc đánh thuế dựa trên số lượng túi sẽ có tác dụng tốt hơn trong việc BVMT. Cách đánh thuế này có nhược điểm là tiến hành thu sẽ khó hơn do các hóa đơn, hợp đồng mua bán túi nilon đều dựa trên khối lượng. Do đó, cần thực hiện thêm một thao tác để quy đổi từ khối lượng sang số lượng túi nilon.

Vì vậy, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu phương pháp đánh thuế dựa trên số lượng túi nhằm đạt được hiệu quả BVMT cao hơn và xem xét đánh thuế một số sản phẩm nhựa plastic khác cũng có nguy cơ tác động lớn đến môi trường như nhựa poly styren dùng làm hộp xốp, thìa nhựa dùng một lần, hộp đựng thực phẩm. Đồng thời, bổ sung các thông tin về tác động môi trường, khả năng tái chế, tái sử dụng và hàng hóa thay thế trong phần thuyết minh lý do điều chỉnh thuế.

Trân Trân
.
.
.