Chuyện chưa kể về nữ Anh hùng điệp báo Nguyễn Thị Thảo

Thứ Năm, 30/04/2020, 14:24
Những ngày tháng Tư lịch sử, nhớ lại khí thế tiến công của các cánh quân cách mạng để trưa 30/4/1975, giải phóng Sài Gòn, bà không khỏi bồi hồi xúc động. Ký ức ngày chiến thắng ùa về càng khiến người phụ nữ sắp bước vào tuổi 80 nhớ da diết khoảng thời gian trước đó, khi bà lặng lẽ hoạt động trong lòng địch, đối mặt với nhiều gian nguy.

Bà là Anh hùng LLVTND, Đại tá Nguyễn Thị Thảo, biệt danh Sáu Thảo, nguyên Phó chỉ huy trưởng An ninh Công an TP Hồ Chí Minh, người từng chịu trách nhiệm thiết lập, điều hành cụm điệp báo số 6 theo chỉ đạo của Ban An ninh Khu Sài Gòn - Gia Định, gọi tắt là An ninh T4, tiền thân của lực lượng Công an TP Hồ Chí Minh hôm nay.

“Khai man” để đến với cách mạng

Trên bàn thờ nhà nữ Anh hùng Nguyễn Thị Thảo có tấm bia khắc tên mẹ, chú, bác, anh, em ruột của bà. Nhiều người trong số đó là liệt sĩ. Mẹ bà là Mẹ Việt Nam Anh hùng. Mẹ và anh của bà hy sinh khi bà mới 4 tuổi. Trong khói hương nghi ngút, bà kể, người cha sau đó chẳng bao lâu cũng qua đời, chị em bà sớm rơi vào cảnh phải ly tán.

“Tôi lên Sài Gòn ở với người dì ruột, vừa đi học, vừa bán hàng rong kiếm sống. Nhưng chỉ thời gian ngắn sau, tim tôi chất chứa thêm sự thù hận khi chồng của dì cũng bị giặc bắt, tra tấn đến chết”, bà kể. Trằn trọc nhiều đêm, bà đã nghĩ đến cách mạng. Sáu Thảo quyết định rời Sài Gòn trở về quê.

Đại tá Nguyễn Thị Thảo bên những tấm hình thời hoạt động điệp báo.

“Quê tôi là xã Thái Hòa, huyện Tân Uyên, tỉnh Sông Bé, nay là Bình Dương. Năm đó là năm 1958, tôi 16 tuổi. Để đủ điều kiện đi làm cách mạng, tôi đã “ăn gian” khai thêm 2 tuổi”, bà nhớ lại. Trong vai một cô thợ may, Sáu Thảo được giao nhiệm vụ vận động thanh niên theo cách mạng; vận động nhân dân đóng góp vật chất, nuôi giấu cán bộ.

Tranh thủ bọn lính nguỵ trong các đồn bốt gần đó hay đến chọc ghẹo, tán tỉnh, Sáu Thảo khéo léo thăm dò, nắm thông tin về quân số, vũ khí và những tên ác ôn, kể cả những người tốt trong hàng ngũ của địch. Những thông tin quí báu này sau đó đã giúp du kích địa phương tiêu diệt được ác ôn, cướp vũ khí và đánh thẳng vào đồn địch trên địa bàn.

Sau thời gian đó, sợ bị địch nghi ngờ, phát hiện thân phận nên Sáu Thảo chủ động xin được vào vùng giải phóng. Được bố trí làm văn thư đánh máy tại Văn phòng Tỉnh ủy Thủ Dầu Một một thời gian, tháng 3-1967, do yêu cầu bức thiết từ chiến trường miền Đông, cô văn thư nổi tiếng cẩn thận ấy được Khu ủy miền Đông điều động về tăng cường cho công tác an ninh. Ở chiến khu D, bà tiếp tục làm công tác văn phòng kiêm công tác đoàn thể.

Nhận thấy Sáu Thảo luôn hoàn thành xuất sắc việc được giao, lại có tố chất kín đáo, cẩn thận nên tháng 10/1967, tổ chức cử bà dự học lớp Trinh sát thuộc Trường An ninh miền Nam. “Ra trường với kết quả xuất sắc, đạo đức tốt và lại từng ở Sài Gòn, tôi được phân công về Ban điệp báo An ninh miền Nam dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chú Sáu Ngọc, tức Lê Thanh Vân, sau này là Đại tá, nguyên Giám đốc Công an TP Hồ Chí Minh, người được truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND 4 năm trước”, bà kể.

Cho ngày thống nhất

Nhớ lại khoảng thời gian được phân công xây dựng mạng lưới giao liên hai chiều để vào nội ô Sài Gòn hoạt động hợp pháp và móc nối cơ sở của ta ra gặp lãnh đạo, Sáu Thảo kể, dù được đào tạo bài bản, có chút kinh nghiệm thực tế nhưng với bà khi đó, đây là công việc rất khó khăn, nguy hiểm. “Tôi lại nghĩ đến cách mạng, nghĩ đến tổ chức. Tất cả đã cân nhắc, đặt niềm tin vào mình. Giờ chỉ còn sự quyết tâm của bản thân”, bà nhớ lại.

Nhiệm vụ khi đó được phân công cho 3 mũi, một mình Sáu Thảo một mũi, còn hai mũi kia, mỗi mũi có 3 người và người đảm nhiệm là nam giới. Bà được cấp một tháng sinh hoạt phí, một khẩu súng ngắn và đặc biệt là “độc lập tác chiến” dưới vỏ bọc là một người “vợ lính” khi hoạt động nội đô và là một người buôn bán khi ra vùng giáp ranh.

Thời gian ra, vào nội đô, bà đã xây dựng được 2 hộp thư quan trọng là H6 và hộp thư Cây Quéo, trong đó hộp thư H6 được Nhà nước tặng Huân chương Kháng chiến hạng Ba. Mạng lưới giao liên do bà xây dựng cho đến ngày miền Nam giải phóng vẫn không hề bị lộ, mặc dù “người cầm đầu” này đã hai lần bị địch bắt và tra tấn rất dã man.

“Tháng 3-1969, tôi vào nội thành để gặp và truyền đạt chỉ thị cấp trên cho cơ sở điệp báo. Vừa qua ngã ba Hóc Môn, tôi bị địch phát hiện nên tôi nhai vội tài liệu mật rồi nuốt vào bụng. Bắt tôi vì tội sử dụng căn cước giả nhưng địch vẫn nghi ngờ tôi là Việt cộng dù chẳng có chứng cứ buộc tội.

Qua đủ trò đánh đập, tra tấn dã man, không khai thác được gì, tôi được đưa về Tây Ninh, tiếp tục bị tra tấn, sau đó mới xét xử với mức án 5 tháng tù dù lúc đó tôi đã chịu cực hình 6 tháng”, bà kể lại lần bị địch bắt đầu tiên.

Đây là những ngày tháng mà bà tự tôi luyện, để trong lần bị bắt sau đó, bà đã vượt qua những đòn tra tấn kiểu “địa ngục trần gian” và vẫn giữ được khí tiết cách mạng.

Sau khi ra tù lần hai, để hoạt động hợp pháp giữa nội ô, Sáu Thảo từng vào vai người giúp việc nhà, khi là cô bán hàng rong, thợ may, là người bán dừa từ miền Tây lên Sài Gòn. Chỉ tính từ đầu năm 1972 đến 30/4/1975, bà đã xây dựng được hơn 10 đầu mối nằm trong các cơ quan trọng yếu của địch như Tổng nha cảnh sát, Nha điện toán, Nha kế hoạch, Bộ dân vận chiêu hồi, Văn phòng nội các… Đặc biệt, bà đã góp phần rất quan trọng xây dựng cụm điệp báo số 6, cụm Z7 và cụm Z8.

“Z7 là Phó tiến sĩ du học ở nước ngoài về, làm việc ở Tổng ủy Dân vận chiêu hồi. Z7 đã tạo được sự tin tưởng và chi phối Chủ tịch Thượng nghị viện Phạm Như Phiên thực hiện những công việc có lợi cho cách mạng. Còn Z8 là người khéo léo, nhanh nhẹn, thu thập được nhiều tin tức và có tác động lớn đối với thanh niên, sinh viên yêu nước đứng về phía cách mạng đấu tranh với chính quyền Thiệu”, bà kể.

Một cơ sở bí danh “Diệu”, cũng du học nước ngoài về, được cài vào Tổng ủy Dân vận chiêu hồi. Đây là nơi quan trọng mà ta cần nắm những thông tin, tài liệu của ta bị địch phát hiện. “Diệu” cũng nắm thông tin về những người trong hàng ngũ cách mạng đã đầu hàng địch, làm tay sai cho giặc. “Diệu” được đánh giá là một trong những cơ sở xuất sắc nhất.

Tại Nha Kế hoạch Chính phủ Nguyễn Văn Thiệu, một cơ sở do Sáu Thảo xây dựng tên là “Cường”, một tiến sĩ khoa học chuyên nghiên cứu về bình định và kế hoạch hậu chiến. Cơ sở này đã thu thập nhiều thông tin chính xác, kế hoạch quan trọng về bình định nông thôn và kế hoạch hậu chiến của Mỹ - ngụy.

Còn một cơ sở tên là “Trúc” đã thu thập được nhiều tài liệu nguyên bản về kế hoạch bình định và kế hoạch hậu chiến toàn miền Nam chuyển về chiến khu của ta, phục vụ yêu cầu trước mắt và lâu dài của cách mạng. Những tài liệu này còn nguyên giá trị trong việc góp phần bóc trần mạng lưới mật báo viên của địch cài lại sau giải phóng.

“Cùng tinh thần hướng đến ngày toàn thắng, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, chúng tôi đã luôn cố gắng để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ”, Anh hùng Nguyễn Thị Thảo cho biết. Điều mà bà cảm thấy sung sướng sau nhiệm vụ gian khó này chính là không ai bị lộ, tư tưởng không có diễn biến gì hết, họ vẫn một lòng theo Đảng đến cùng.

“Họ đến với công việc điệp báo bằng tấm lòng tự giác, tự nguyện. Có người, cha là đại tá, thiếu tướng, có người cha là thượng nghị sĩ… trong chế độ Việt Nam Cộng hòa, nhưng họ theo cách mạng toàn tâm toàn ý. Mục tiêu lớn và duy nhất của họ là phục vụ cách mạng. Họ cũng đã lặng lẽ đóng góp công sức, trí tuệ cho ngày toàn thắng…”, Anh hùng Nguyễn Thị Thảo chia sẻ.

Họ đến với công việc điệp báo bằng tấm lòng tự giác, tự nguyện. Có người, cha là đại tá, thiếu tướng, có người cha là thượng nghị sĩ… trong chế độ Việt Nam Cộng hòa, nhưng họ theo cách mạng toàn tâm toàn ý. Mục tiêu lớn và duy nhất của họ là phục vụ cách mạng. Họ cũng đã lặng lẽ đóng góp công sức, trí tuệ cho ngày toàn thắng…”

Đại tá Nguyễn Thị Thảo

Nguyễn Cảnh
.
.