Lực lượng an ninh và biệt động Sài Gòn trong tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968
- An ninh miền Nam với chiến dịch Xuân Mậu Thân 1968: Dư âm không chỉ là tiếng súng
- Vận dụng bài học Mậu Thân 1968 trong tình hình mới
Đầu tháng 1-1968, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 14 Khóa III chỉ rõ: “Trong quá trình tổng công kích và tổng khởi nghĩa, chúng ta phải quán triệt nguyên tắc: Tập trung lực lượng quân sự và chính trị đến mức cao nhất, kiên quyết tiến công, liên tục tiến công nhằm vào những nơi xung yếu của địch mà đánh những đòn quyết định; phải tuyệt đối giữ cho được yếu tố bất ngờ; phải biết giành thắng lợi từng giờ, từng phút và không ngừng mở rộng thắng lợi; kiên quyết chống trả và bẻ gẫy các cuộc phản công của địch và truy kích địch đến cùng để giành thắng lợi cao nhất”(*).
Sài Gòn-Gia Định là khu vực trọng điểm được chia thành 6 phân khu, mỗi phân khu có khu ủy và Ban chỉ huy quân sự, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy Khu gồm các đồng chí Nguyễn Văn Linh - Phó Bí thư Trung ương Cục; Võ Văn Kiệt, Trần Văn Trà - Ủy viên Trung ương Cục. Đảng ủy Khu trọng điểm tổ chức ra 2 phân ban lãnh đạo 2 Bộ Tư lệnh Tiền phương: Bộ Tư lệnh Tiền phương Bắc và Tiền phương Nam.
Ngày 19-12-1967, Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn ký quyết định thành lập Phòng theo dõi tình hình chiến trường miền Nam nhằm nghiên cứu góp ý kiến kịp thời các biện pháp công tác, đấu tranh chống mọi hoạt động tình báo, gián điệp, phục vụ cho Tổng công kích, tổng khởi nghĩa đang đến gần. Ban An ninh Trung ương Cục miền Nam tăng cường đồng chí Ngô Quang Nghĩa, Đinh Văn Tùng, Tư Thông, Sáu Thành, Năm Trà xuống nhập với 6 mũi tiến công của 6 phân khu do đồng chí Ngô Quang Nghĩa làm trưởng đoàn và Ban An ninh các địa phương đều có sự điều chỉnh về tổ chức, và chỉ đạo tăng cường cán bộ cho chiến trường chính và an ninh khu trọng điểm.
Lực lượng an ninh khu trọng điểm được chia thành nhiều đội nhỏ, để khi đến giờ hành động nhanh chóng tiêu diệt bọn đầu sỏ. Ban lãnh đạo an ninh và 2 đơn vị vũ trang có nhiệm vụ theo sát để bảo vệ 2 Bộ chỉ huy tiền phương Bắc và Tiền phương Nam. Ban An ninh khu Sài Gòn - Gia Định với các mũi tiến công đánh vào những mục tiêu trọng yếu của địch ở Tổng Nha Cảnh sát và Nha Cảnh sát đô thành Sài Gòn.
Lực lượng trinh sát vũ trang cũng được tăng cường, biên chế thành hai đại đội làm nhiệm vụ diệt bọn đầu sỏ, cảnh sát, ác ôn trong cơ quan đầu não của địch, góp phần chiếm lĩnh các mục tiêu thuộc các cơ quan đàn áp, kìm kẹp của địch. Ban An ninh khu Sài Gòn - Gia Định rà soát lại các mạng lưới, cơ sở điệp báo, xây dựng được hàng trăm cơ sở mới, cơ sở tai mắt trong lòng địch, nên ta nắm tình hình địch sát với chiến trường.
Theo phương án đã định, Đoàn Đặc công biệt động F-100 được phân thành 3 cụm: Cụm phía Đông đánh vào các mục tiêu Dinh Độc Lập, Tòa Đại sứ Mỹ, Đài Phát thanh, Bộ Tư lệnh Hải quân ngụy; cụm phía Bắc đánh vào mục tiêu sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu ngụy, Khám Chí Hòa; cụm phía Nam đánh vào các mục tiêu Nha Cảnh sát ngụy, Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ Đô.
Các đội biệt động thuộc các cụm nói trên đột nhập chiếm lĩnh mục tiêu “ém sẵn”, chờ các cánh quân của các phân khu tiến vào để đồng loạt triển khai làm chủ trên diện rộng. Đêm mồng Một Tết (30-1-1968), lực lượng an ninh Sài Gòn-Gia Định phối hợp chặt chẽ cùng các đội biệt động của ta đột nhập vào nội thành. Từ các trạm bí mật, các chiến sĩ đã dùng xe du lịch tiếp cận các mục tiêu. 2h sáng 31-1-1968, nghe pháo lệnh, các đội biệt động đồng loạt tiến công vào Sứ quán Mỹ, Dinh Độc Lập, Đài Phát thanh, Bộ Tổng tham mưu và Bộ Tư lệnh Hải quân...
Đội biệt động 11 gồm 17 đồng chí do Ngô Thành Vân (Ba Đen) chỉ huy, tiếp cận Sứ quán Mỹ ở đường Thống Nhất (số 9 Lê Duẩn ngày nay). Anh em nổ súng diệt 2 tên lính Mỹ gác cổng, dùng thuốc nổ phá một mảng tường, tiến vào bên trong. 20 phút sau, bọn Mỹ đến ứng cứu giải tỏa bị ta chặn đánh quyết liệt ngay ngoài cổng chính.
Đến sáng, 1 trung đội lính Mỹ mới vào được bên trong, ta và địch quần nhau quyết liệt trong khuôn viên Sứ quán Mỹ. Ta đánh chiếm tầng 1, tiến lên tầng 2, tầng 3. Trước sức chiến đấu ngoan cường của các chiến sĩ, bọn Mỹ phải dùng trực thăng đổ quân từ trên nóc nhà để tiếp viện. Trời sáng, do anh em ta không được chi viện nên trận đánh kết thúc, 16 chiến sĩ của ta anh dũng hy sinh. Đồng chí Đội trưởng bị thương nặng và bị địch bắt.
Lực lượng tấn công Đài Phát thanh Sài Gòn gồm 12 chiến sĩ Đội biệt động số 4, do đồng chí Nguyễn Văn Tăng, cụm trưởng cụm 3-4-5 phụ trách chung, đồng chí Năm Lộc chỉ huy. Các chiến sĩ ta đã tấn công bất ngờ làm ngưng trệ phát thanh từ 2h đến 5h sáng, nhưng địch được tiếp viện phản kích trở lại. Đội biệt động số 5 gồm 15 chiến sĩ do đồng chí Ngô Hoài Thanh chỉ huy tiến vào Dinh Độc Lập, tấn công vào cổng dinh phía đường Nguyễn Du, diệt bọn lính gác, nhưng không triển khai được trước sức chống trả quyết liệt của bọn phòng vệ. Địch điều xe thiết giáp đến ứng cứu, buộc ta phải rút lui.
Ở các mục tiêu khác, các đội biệt động cùng với lực lượng an ninh đều tiến chiếm và giữ được đến sáng, nhưng các tiểu đoàn mũi nhọn của các phân khu không tiếp ứng được kịp thời. Các chiến sĩ biệt động đã anh dũng chiến đấu đến giờ phút chót, nêu cao khí phách anh hùng của biệt động Sài Gòn trong giờ phút lịch sử của Tết Mậu Thân 1968.
Trên các mũi tiến công khác của ta, cuộc chiến đấu đã diễn ra phức tạp ngay từ đầu. Ở Bộ Tổng tham mưu ngụy, quân ta đánh vào cổng số 4, chiếm Trường Sinh ngữ quân đội và kho đạn, chặn viện binh đến cứu nguy cho căn cứ Gò Vấp; ở sân bay Tân Sơn Nhất, ta bắn phá sân bay và đánh vào phía Tây; trong tác chiến hợp đồng các mũi tiến quân khác nổ súng tấn công trại Cổ Loa, căn cứ Phù Đổng, tiến về Bình Hòa, áp sát Tòa hành chánh và Bộ chỉ huy Tiểu khu Gia Định.
Một cánh đánh đến Hàng Xanh, Cầu Sơn, làm chủ cù lao Bình Quới Tây và quần nhau với địch suốt 3 ngày tại đây. Một số đơn vị tiến sâu vào đường Sư Vạn Hạnh, Bệnh viện Nhi đồng, Vườn Lài, chợ Thiếc, cư xá Hỏa Xa...
Từ phía Nam, các đồng chí lãnh đạo Bộ Tư lệnh Tiền phương II vào đến chợ Thiếc (Q11), nhưng bị địch phát hiện. Lực lượng an ninh vũ trang phải chia lực lượng, 12 chiến sĩ chốt chặn tại chợ Thiếc để bảo vệ Bộ Tư lệnh rút ra khỏi khu vực nguy hiểm. Suốt 5 ngày chiến đấu liên tục, ta diệt tại chỗ 50 tên địch, bắn cháy 10 xe trong đó có 5 xe bọc thép, bẻ gãy các cuộc tiến công của địch.
Do địch chi viện mạnh, ta hy sinh 10 người, còn 2 người phải lui về phòng ngự ở nghĩa địa Phú Thọ Hòa. Địch tiếp tục phản kích, ta diệt thêm 70 tên địch, bắn cháy 7 xe cơ giới. Hai đội an ninh vũ trang, đội 1 có 15 đồng chí và một số bộ phận của Bộ Tư lệnh Tiền phương II, ngày 4-2-1968 vào đến đường Hậu Giang thì gặp địch, chiến đấu quyết liệt diệt 37 tên cảnh sát, trong đó có tên Phó Ty cảnh sát quận 6, sau đó chuyển về Phú Hữu chống càn diệt 37 tên, làm bị thương nhiều tên khác.
Ngày 5-2-1968, đơn vị I - An ninh vũ trang khu trọng điểm theo sát Bộ Tư lệnh Tiền phương I, bí mật cơ động qua nhiều đồn bốt địch, phối hợp với các lực lượng biệt động diệt 25 tên cảnh sát mật vụ ác ôn, sau đó phối hợp với Tiểu đoàn 10 chống càn quét, diệt 1 đại đội địch, bắn cháy 8 xe M113, bắn rơi 2 trực thăng. Ngày 28-2-1968, trên đường rút về căn cứ Mỹ Hạnh Đức Hòa, Long An, Đội An ninh vũ trang huyện Bình Chánh Phân khu II phối hợp với bộ đội địa phương bắn B-40 và gài lựu đạn vào xe địch, tiêu diệt 13 tên ngụy và một số tên Mỹ...
Từ ngày 10-2-1968, lực lượng an ninh cùng các đơn vị vũ trang của ta lần lượt rút về căn cứ xuất phát; lực lượng vũ trang địa phương vẫn bám trụ kiên cường đánh địch ở các vùng Phú Lâm, Phú Thọ, Minh Phụng, Minh Mạng, Vườn Lài...
Cuộc Tổng tiến công chiến lược Tết Mậu Thân đã làm cho địch bị bất ngờ cả về chiến lược, chiến thuật và mục tiêu, thời điểm tiến công. Thời gian tiến công được chọn đúng giữa đêm giao thừa Tết Nguyên đán là một thời điểm mà địch không ngờ tới. Đây thật quả là một sự chỉ đạo và quyết tâm chiến lược chính xác, sáng tạo, táo bạo. Đòn tiến công Mậu Thân 1968 đã gây kinh hoàng cho cả nước Mỹ.
Trên hầu hết các bang nước Mỹ rộ lên những cuộc biểu tình chống chiến tranh, đặc biệt là của giới sinh viên, học sinh. Nhiều người trong chính giới Mỹ đòi xét lại chính sách của Mỹ đối với cuộc chiến này. Ngày 31-3-1968, Johnson thông báo quyết định đơn phương ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, nhận sẵn sàng ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Paris và tuyên bố không ra tranh cử Tổng thống nhiệm kỳ hai. Có thể coi đó là sự thừa nhận công khai sự phá sản của chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ. Và rõ ràng là ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ đã bị lung lay.
50 năm đã trôi qua, với niềm tự hào chính đáng thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, đó là bài học lịch sử của một quá trình đánh giá đúng tình hình, có tầm nhìn chiến lược, kiên định mục tiêu cơ bản và lâu dài của dân tộc, của cách mạng mới có thể phân tích đúng tình hình, tạo ra thời cơ và nắm bắt thời cơ, tổ chức sử dụng lực lượng vũ trang nhân dân cùng bộ đội chủ lực bí mật bất ngờ Tổng công kích, tổng tiến công đồng loạt giành thắng lợi, tạo bước ngoặt quan trọng đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đến thắng lợi hoàn toàn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước vào mùa xuân 1975.
(*) Tìm hiểu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam qua các đại hội và Hội nghị Trung ương 1930-2002. Nxb Lao động. tr.586. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 14 (tháng 1 năm 1968).