Gặp lại ‘nụ cười bất tử’ bên thành cổ Quảng Trị

Thứ Ba, 28/04/2015, 17:21
Điện Biên Phủ bây giờ đang vào thời điểm khắc nghiệt nhất của mùa khô nhưng đường vào Thanh Yên vẫn ngăn ngắt một màu lúa đang thì con gái. Cái màu dịu dàng ấy làm dịu đi cái nóng sực của gió Lào từ bên kia dãy U Va ào ạt thổi về cánh đồng Mường Thanh.

Chúng tôi tìm đến nhà cựu chiến binh Lê Xuân Chinh – người nổi tiếng với nụ cười bất tử trong tấm hình của phóng viên chiến trường Đoàn Công Tính: “Nụ cười chiến thắng bên thành cổ Quảng Trị”. 81 ngày đêm rực lửa bi tráng ở thành cổ, sự sống và cái chết mong manh là thế nhưng nụ cười lạc quan, yêu đời của người lính tuổi đôi mươi là một trong những câu trả lời cho câu hỏi vì sao dân tộc ta đã chiến thắng trong cuộc trường chinh, trường kỳ gian khổ…

Căn nhà mái bằng giản dị của cựu binh Lê Xuân Chinh ở Đội 4, xã Thanh Yên, huyện Điện Biên (Điện Biên) nhìn ra cánh đồng, phía trước là đỉnh núi U Va xanh thẫm. “Đồng đội tôi ai cũng xứng đáng là nụ cười trong bức ảnh ấy. Câu chuyện của tôi có gì đâu, các nhà báo cũng viết nhiều rồi. Nhưng cũng nhờ bức ảnh, đồng chí đồng đội mới biết tôi còn sống, Viện 108, nhà báo Đoàn Công Tính và nhiều người đã chung tay hỗ trợ xây tặng gia đình căn nhà tình nghĩa này” - cựu chiến binh Lê Xuân Chinh bắt đầu câu chuyện với nụ cười lấp lánh như thuở nào.

Năm nay ông bước sang tuổi 63, sức khoẻ yếu nhiều. Ông bảo, được sống trở về thấy mình quá may mắn so với bao đồng đội nằm lại ở chiến trường nên mặc dù bị thương, mấy chục năm chẳng có chế độ gì, ngay cả trong thời điểm bi đát nhất: nghèo đói, bệnh tật, đàn con nheo nhóc, ông vẫn không đòi hỏi chế độ gì cho mình. Ông cứ bươn chải âm thầm như thế hơn ba chục năm trời cho đến một ngày người ta phát hiện ra nhân vật trong bức ảnh “Nụ cười chiến thắng bên thành cổ Quảng Trị” được treo trang trọng trong bảo tàng vẫn còn sống…

Cựu binh Lê Xuân Chinh quê ở làng Phương La, xã Thái Phương, huyện Hưng Hà, Thái Bình. Ông mồ côi cha từ hồi mới chập chững. Năm 1972, thời điểm khốc liệt nhất của cuộc chiến tranh chống Mỹ, cả dân tộc sục sôi ra trận, là con độc nhất tuy không thuộc diện phải vào chiến trường nhưng thấy bạn bè đồng trang lứa tíu tít ghi danh lên đường đánh giặc, ông đứng ngồi không yên. Hôm đó, sau khi lên xã nộp đơn xung phong nhập ngũ, quay về nhà ông thấy mẹ đang thắp hương trên bàn thờ bố, rì rầm khấn vái rồi ngồi khóc.

Nụ cười của người cựu binh Lê Xuân Chinh năm 1972 tại thành cổ Quảng Trị và...

Bà linh cảm điều này từ lâu, biết tính con nên bà không ngăn cản. Ba hôm sau, ông lên đường và chỉ nói với mẹ: “Con đi, sống xanh cỏ, chết đỏ ngực. Con hứa sẽ không bao giờ làm ô danh mẹ và gia đình”.

Tháng 6/1972, trong biên chế Đại đội 18 thông tin liên lạc của Trung đoàn 48, Sư đoàn 320B, Lê Xuân Chinh vượt sông Thạch Hãn vào thành cổ Quảng Trị. Nhiệm vụ chính của ông và đồng đội là hằng ngày dẫn lực lượng chủ lực và đem công văn, mệnh lệnh từ chỉ huy xuống các đơn vị chiến đấu vào trong thành cổ. “Hồi đó chúng tôi coi cái chết nhẹ như lông hồng. Chiến tranh khốc liệt quá khiến mỗi người trở nên bản lĩnh và chai sạn trước bom đạn” – ông trải lòng.

Mỗi ngày Lê Xuân Chinh và đồng đội không biết phải bao lần đối mặt và lách qua cái chết chỉ trong gang tấc. Gần như 24/24h, B52 rồi pháo từ Hạm đội 7 Mỹ bắn như vãi chấu, hoả lực của lính Việt Nam Cộng hoà (Thiết đoàn 7, 18 kị binh; Lữ đoàn dù 1, 2, 3; Liên đoàn Biệt cách nhảy dù; 3 lữ đoàn thuỷ quân lục chiến…) thi nhau giội lửa xuống trận địa. Đường dây vô tuyến, hữu tuyến gần như không hoạt động nên mệnh lệnh của Ban chỉ huy Trung đoàn (E 48) chỉ được truyền đạt thông qua đơn vị thông tin liên lạc.

Trận Thành cổ kéo dài 81 ngày đêm (bắt đầu từ 28/6/1972 đến 16/9/1972 - quân ta rút khỏi thành cổ) thì Lê Xuân Chinh bám trụ đến 70 ngày. Chiều 5/9/1972, trên đường mang công văn từ Ban chỉ huy Trung đoàn xuống Ái Tử, ông dính pháo bầy, bị mảnh pháo găm vào sườn trái, máu tưới ướt sũng quần áo. Khi tỉnh dậy, ông mới biết mình đã được đồng đội chuyển ra Bệnh viện dã chiến 112, thuộc xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy (Quảng Bình)…

Kể về xuất xứ tấm hình nổi tiếng “Nụ cười chiến thắng bên thành cổ Quảng Trị”, cựu chiến binh Lê Xuân Chinh hồi tưởng: “Hôm đó nhận lệnh của Ban chỉ huy Trung đoàn, tôi và du kích dẫn phóng viên nhiếp ảnh Đoàn Công Tính, Báo Quân đội Nhân dân vào thành cổ.

...hiện nay.

Khi đến một chốt của quân ta ở phía đông gần giáp bờ sông Thạch Hãn (chỉ cách dinh Tỉnh tưởng chỉ hơn 100m), thấy một nhóm chiến sĩ ta đang cười nói rôm rả giữa lúc pháo địch chuyển làn, phóng viên Đoàn Công Tính bảo: “Các anh em cứ ngồi đó cười thật tươi tôi chụp bức ảnh”. Lúc đó chẳng ai nghĩ sẽ được nổi tiếng mà chỉ nghĩ đơn giản sống chết có số cả cứ cười cho khí thế, có khi chụp xong lát nữa hy sinh hết. Vả lại tôi là con độc nhất, cũng muốn được đăng báo để gia đình ở quê biết được con đang sống và chiến đấu ở Quảng Trị. Sau này đơn vị tôi rút ra Nông Cống, Thanh Hoá, lần đầu tiên tôi nhìn thấy tấm ảnh này trên Báo QĐND do thủ trưởng đơn vị cho xem rồi quên luôn gần 30 năm sau. Hôm đó (2002 – TG) có người ở Bảo tàng Quảng Trị gọi điện qua số máy của nhà hàng xóm xin gặp tôi để xác minh về người trong bức ảnh”.

Năm 1974 do vết thương tái phát, sức khỏe yếu, gia đình con một nên Lê Xuân Chinh được cấp trên giải quyết về phục viên. Cùng nhập ngũ đợt đó làng ông có 10 người, đến ngày toàn thắng chỉ có 4 người trở về, 6 người mãi mãi nằm lại chiến trường. “Thời điểm cuối những năm 70, đầu 80 của thế kỷ trước đất nước vô cùng khó khăn. Từ chiến trường ra chẳng biết làm gì để nuôi vợ con, năm 1980, tôi lên thăm bà cô ruột đi kinh tế mới ở Điện Biên, thấy mảnh đất phì nhiêu, có thể sống được nên tôi về đưa vợ (bà Đào Thị Đặt) đang mang bầu 7 tháng con gái đầu lòng ngược Tây Bắc” - cựu binh Lê Xuân Chinh kể tiếp.

Sau những năm tháng vào sinh ra tử ở chiến trường, giai đoạn này, gia đình cựu binh Lê Xuân Chinh mới thực sự phải đối mặt với những khó khăn của cơm áo gạo tiền. Giấy tờ chứng nhận thương tật bị mất sạch, ông lên xây dựng kinh tế mới chỉ có 1.000m² ruộng, 3 đứa con nheo nhóc lần lượt ra đời. Vết thương ở sườn trái gió trở trời lại chọc vào phổi làm ông không thể làm được những việc nặng nhọc, 3 người con mặc dù học hành cũng khá nhưng vì nhà nghèo quá nên phải bỏ học giữa chừng. Gia đình ông vẫn ở ngôi nhà gỗ bé xíu cho đến tận năm 2002, khi người ta phát hiện ông chưa… hy sinh!

Nhà báo Đoàn Công Tính, đạo diễn Trần Minh Đại rồi VTV tìm đến ông. Ông lên sóng truyền hình trong câu chuyện xúc động đẫm nước mắt trong chương trình Người đương thời… Đồng chí đồng đội và những nhà hảo tâm quyên góp dựng cho ông căn nhà tình nghĩa, ông được cấp thẻ thương binh 4/4.

Cảm phục với những cống hiến của người cựu binh một thời hoa lửa, Công ty Mai Linh đã mời ông đi làm với cương vị Chủ tịch công đoàn Công ty Mai Linh tại Lào Cai. Nhưng ông cũng chỉ làm ở đó hơn một năm, khi Mai Linh tái cơ cấu, Ban Giám đốc công ty có nhã ý mời ông về Hà Nội nhưng sức khoẻ không cho phép, nghĩ đến cảnh xa vợ con, con cháu nên ông xin nghỉ làm quay lên Điện Biên.

Ông bảo điều trăn trở nhất của mình là do hoàn cảnh khó khăn nên không cho 3 con theo học hết cấp ba. Bây giờ 2 cô con gái Lê Thị Oanh (sinh năm 1980), Lê Thị Minh (sinh năm 1982) và con trai út Lê Văn Thành (sinh năm 1985) đều lập gia đình và làm nông nghiệp ở xã Thanh Yên. Tôi xuống thăm nhà cậu con út của ông – anh Lê Văn Thành.

Sau mấy chục năm, vợ chồng ông cũng tích cóp dựng cho cậu con trai duy nhất một căn nhà cấp 4 rộng chừng 16m² ở ngay cạnh nhà bố mẹ. Nhà Thành khó khăn lắm, đồ đạc không có gì đáng giá. Thành bị nhiễm chất độc da cam từ bố nên sức khoẻ yếu, chẳng làm được việc gì, thu nhập vẫn phụ thuộc vào bố mẹ và người vợ tảo tần. Vợ chồng anh sinh được một cô con gái năm nay 7 tuổi nhưng bị bại não hiện vẫn chỉ nằm một chỗ. Vợ Thành đi phụ xây tất tả quay về tiếp chúng tôi. Chị nói giọng nghèn nghẹn: “Vợ chồng em cũng chưa dám quyết định sinh thêm con vì sợ bố cháu nhiễm chất độc da cam, sinh ra lại khổ”.

Chiều muộn, những tia nắng cuối cùng trong ngày vội vã nhuộm một màu đỏ ối trên đỉnh U Va trước nhà. Ông tiễn tôi ra tận ngõ. Vẫn nụ cười lạc quan năm nào nhưng tôi thoáng thấy đôi mắt ông ứa lệ khi ôm riết đứa cháu nội tàn tật vào lòng…

Vũ Mạnh Hà
.
.