Chiến lược khoáng sản - định hướng quan trọng để sử dụng hiệu quả tài nguyên

Thứ Hai, 04/01/2021, 07:51
Nghị quyết số 02/NQ/TW ngày 25/4/2011 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 là cơ sở quan trọng để ngành công nghiệp khai khoáng phát triển bền vững, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.


Phóng viên đã có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Bùi Vĩnh Kiên, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam về quản lý tài nguyên khoáng sản nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Phóng viên: Quá trình gần 10 năm thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 và Luật Khoáng sản đã thực sự tạo ra sự chuyển biến từ nhận thức đến hành động trong quá trình phát triển. Chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đã tích cực góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vậy Tổng cục đã triển khai thực hiện Luật Khoáng sản năm 2010 như thế nào, thưa ông?

Ông Bùi Vĩnh Kiên: Nghị quyết 02 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 là định hướng quan trọng để vừa sử dụng hiệu quả tài nguyên, đồng thời đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Để từ đây việc xây dựng luật và chính sách đã tạo được sự quan tâm đồng bộ của các doanh nghiệp khai khoáng và cộng đồng dân cư về vai trò và hiệu quả trong hoạt động khai khoáng, lan tỏa tới các hoạt động bảo vệ khoáng sản chưa khai thác, đảm bảo việc bảo về môi trường trong khai khoáng, phát huy hiệu quả khoa học, công nghệ trong hoạt động khoáng sản, tạo bước chuyển mạnh mẽ trong toàn xã hội.

Vận chuyển than thô tại khai trường mỏ than Tây Nam Đá Mài (Quảng Ninh). Ảnh: TTXVN

Điều này thể hiện rõ từ việc phân cấp giấy phép hoạt động khoáng sản hầu hết cho các địa phương (Luật Khoáng sản năm 2005), nay đã được điều chỉnh, quy định tập trung quản lý ở cấp Trung ương. Theo quy định của Luật, địa phương chỉ được phân cấp cho quản lý một số khoáng sản như: Vật liệu xây dựng thông thường, khoáng sản phân tán nhỏ lẻ, than bùn. Chính vì vậy mà tránh được việc cấp giấy phép tràn lan, các hoạt động khoáng sản đã dần được kiểm soát. Đồng thời, chuyển dần hoạt động khai khoáng từ chiều rộng sang chiều sâu.

Đến nay, sau gần 10 năm thực hiện Luật Khoáng sản năm 2010, Tổng cục đã chủ trì xây dựng để Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành hoặc trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 6 nghị định; 5 quyết định của Thủ tướng Chính phủ và gần 50 thông tư, thông tư liên tịch để hướng dẫn thực hiện.

Sự thay đổi còn thể hiện qua việc sắp xếp, kiện toàn các cơ quan quản lý nhà nước về khoáng sản từ Trung ương tới địa phương. Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhằm nâng cao năng lực quản lý nhà nước về khoáng sản ở các cấp. Đặc biệt đã kiện toàn, tăng cường bộ máy thanh tra, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động khoáng sản, xử lý nghiêm các vi phạm.

Chính sách kinh tế địa chất và khoáng sản là điểm nhấn trong Luật Khoáng sản năm 2010. Theo đó, những vấn đề kinh tế đã được đề ra cụ thể, tạo sự chuyển biến tích cực cả về nhận thức và thực thi trong cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong 9 năm qua, lần đầu tiên tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được đề cập và triển khai. 

Qua 5 năm (2014 - 2019) triển khai thực hiện, tổng thu ngân sách từ tiền cấp quyền khai thác khoáng sản do Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm là trên 50.000 tỷ đồng. Các địa phương thu trên 13.000 tỷ đồng. Trung bình hàng năm ngân sách nhà nước thu từ 4.300 - 4.500 tỷ đồng từ tiền cấp quyền khai thác khoáng sản.

Đồng thời, với tiền cấp quyền khai thác khoáng sản những năm qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tiến hành tính và thu tiền sử dụng số liệu thông tin về kết quả điều tra, thăm dò khoáng sản phải hoàn trả do Nhà nước đã đầu tư. Số tiền thu được khoảng 2.500 tỷ đồng.

Phóng viên: Ông đánh giá như thế nào về việc thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản và thu tiền sử dụng số liệu thông tin về kết quả điều tra, thăm dò khoáng sản phải hoàn trả do Nhà nước đã đầu tư trong thời gian qua?

Ông Bùi Vĩnh Kiên: Việc thu tiền cấp Quyền khai thác khoáng sản và thu tiền sử dụng số liệu thông tin về kết quả điều tra, thăm dò khoáng sản phải hoàn trả do Nhà nước đã đầu tư, đã nâng cao hiệu quả của khai thác khoáng sản, nâng cao trách nhiệm, nghĩa vụ của doanh nghiệp khai thác khoáng sản đối với Nhà nước và địa phương có khoáng sản được khai thác.

Ngoài ra, trách nhiệm kinh tế đã khắc phục được cơ bản tình trạng đầu cơ mỏ khoáng sản, hạn chế tình trạng các doanh nghiệp khai thác nhỏ lẻ, manh mún, thiếu năng lực tài chính để tổ chức các hoạt động khai thác, việc mua bán chuyển nhượng, kém hiệu quả trong khai thác, sử dụng nguồn lực của Nhà nước đã cơ bản được khắc phục.

Chính sách kinh tế địa chất và khoáng sản còn nổi bật bởi quy định việc cấp giấy phép hoạt động khoáng sản thông qua đấu giá quyền khai thác khoáng sản. Việc đấu giá quyền khai thác khoáng sản đã được triển khai đồng bộ cả ở Trung ương và địa phương. Kết quả qua các cuộc đấu giá, mức giá trúng đấu giá đều tăng từ 1,5 đến 2,3 lần mức giá khởi điểm. Đấu giá Quyền khai thác khoáng sản là bước tiến quan trọng trong nhận thức và triển khai các quy định của pháp luật về khoáng sản, tạo ra sự công bằng, bước đầu tiếp cận với cơ chế thị trường trong hoạt động khoáng sản.

Phóng viên: Để tăng cường việc quản lý tài nguyên khoáng sản và hoạt động khai khoáng nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, ngành địa chất và khoáng sản cần đề ra những nhiệm vụ trọng tâm nào trong năm 2021, thưa ông?

Ông Bùi Vĩnh Kiên: Ngành địa chất và khoáng sản trong giai đoạn mới cần tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 02/NQ/TW, nhằm tăng cường quản lý tài nguyên khoáng sản và hoạt động khai khoáng theo hướng khai thác và sử dụng tài nguyên khoáng sản tiết kiệm, hiệu quả; thực hiện việc sửa đổi, bổ sung Luật Khoáng sản theo hướng xây dựng thành Luật Địa chất và Tài nguyên Khoáng sản nhằm thể chế hóa các hoạt động địa chất và khoáng sản; tăng cường quản lý thống nhất của Nhà nước về địa chất, địa chất công trình, địa chất thủy văn, địa chất đô thị; tăng cường điều tra, tìm kiếm đánh giá các nguồn tài nguyên mới như: địa nhiệt, khí đá phiến, quản lý địa chất tai biến, địa chất môi trường,… cần được luật hóa.

Ngành địa chất và khoáng sản cần xây dựng và triển khai thực hiện Quy hoạch điều tra cơ bản địa chất, đánh giá, thăm dò khoáng sản một cách bài bản theo từng giai đoạn 2020-2030, tầm nhìn 2050, nhằm điều tra, tìm kiếm các nguồn tài nguyên mới cho đất nước cả trên đất liền và vùng thềm lục địa.

Ngành địa chất và khoáng sản cần hoàn thiện chính sách bảo vệ môi trường trong khai thác và chế biến khoáng sản. Thực hiện cơ chế khuyến khích các giải pháp khai thác khoáng sản bền vững, đảm bảo môi trường tổng thể. Tăng cường vai trò trách nhiệm của cơ quan quản lý chuyên ngành từ Trung ương đến địa phương và người dân nơi có khoáng sản, nhằm phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời các sai phạm về môi trường trong hoạt động khoáng sản. Xây dựng và ưu tiên chính sách đảm bảo an sinh xã hội đối với các vùng, khu vực có hoạt động khai khoáng, nhằm ổn định bền vững sự phát triển kinh tế gắn với phát triển văn hóa - xã hội vùng miền.

Ngoài ra, ngành địa chất và khoáng sản cần tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý từ Trung ương đến địa phương; thống nhất công tác quản lý từ khâu điều tra cơ bản địa chất, đánh giá khoáng sản, thăm dò khoáng sản. Trong quá trình thực hiện cần đồng bộ các giải pháp, trong đó có việc đánh giá hiệu quả kinh tế của từng giai đoạn, gắn với công tác giám sát các hoạt động, nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của từng đề án, dự án; sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong đầu tư.

Bên cạnh đó, ngành địa chất và khoáng sản cần chú trọng công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt chú trọng nguồn nhân lực trình độ cao; tăng cường hợp tác quốc tế cả hợp tác song phương và đa phương nhằm tăng cơ hội tiếp cận công nghệ hiện đại, đồng thời tăng cường đào tạo nguồn nhân lực trong xu hướng hội nhập kinh tế toàn cầu.

Phóng viên: Trân trọng cảm ơn ông!

Diệu Thúy (thực hiện)
.
.
.