Nhớ lời Bác dạy năm xưa

Thứ Sáu, 10/03/2023, 10:33

Mỗi độ tháng 3 về, cùng việc đánh giá, tổng kết những nội dung, chương trình hành động học tập Sáu điều Bác Hồ dạy CAND thì đây cũng là dịp mỗi cán bộ, chiến sĩ tự soi chiếu, kiểm điểm để ngày một tiến bộ. Thời gian cuộn chảy, nhịp sống và tư duy có những đổi khác, song ý nghĩa, giá trị những lời dạy của Bác luôn vẹn nguyên tính thời sự.

Để hiểu hoàn cảnh ra đời Sáu điều Bác dạy CAND, chúng ta nhớ lại mùa xuân năm 1948 với sự ra đời của bài thơ nổi tiếng “Rằm tháng Giêng” (Nguyên Tiêu). Vào đêm 24/2/1948 (tức đêm rằm tháng Giêng năm Mậu Tý), sau khi bàn bạc việc quân sự ở địa điểm bí mật, đi thuyền trên dòng sông Phó Đáy giữa cảnh trăng ngàn gió núi, Bác viết bài “Nguyên Tiêu”:

Rằm xuân lồng lộng trăng soi

Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân

Giữa dòng bàn bạc việc quân

Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.

(Xuân Thủy dịch)

Âm hưởng của bài thơ cho thấy, dù cuộc kháng chiến đang ở thời kỳ vô cùng cam go, thử thách nhưng “giữa dòng bàn bạc việc quân”, không gian đầy sắc xuân chan chứa trong tâm hồn thi sĩ Hồ Chí Minh thể hiện tinh thần lạc quan, truyền gửi thông điệp, niềm tin tất thắng. Từ bức tranh xuân của đêm rằm tháng Giêng đầy chất thơ, trữ tình và niềm tin tất thắng đó đến thời điểm Bác viết Sáu điều dạy CAND chỉ trong khoảng thời gian hơn 2 tuần (ngày 11/3/1948). Đồng chí Hoàng Mai, khi đó là Giám đốc Công an khu 12 kể rằng, ngày ấy, “đại bản doanh” của Công an khu 12 đóng tại xã Nhã Nam, huyện Yên Thế, Bắc Giang. Cơ sở vật chất không có gì, từ cái kim, sợi chỉ đến cái ăn, cái mặc, nơi làm việc và chỗ ở, đến việc đi lại, hoạt động của các cán bộ công an đều phải dựa vào dân. Do lực lượng Công an còn non trẻ nên để đáp ứng yêu cầu bồi dưỡng nghiệp vụ cũng như phẩm chất của người công an cách mạng, Công an khu 12 đã cho xuất bản tờ báo mang tên “Bạn dân” (Báo CAND ngày nay).

q.jpg -0
Ngày 21/12/1956, Bác Hồ đến thăm và nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Công an Hà Nội tại Hội nghị tổng kết công tác năm. Ảnh: Tư liệu.

Dịp Tết năm ấy, được tòa soạn Báo Cứu quốc giúp đỡ, tờ Bạn dân của Công an khu 12 được in ti-pô nên khá đẹp. In xong, ông chọn tờ báo đẹp nhất gửi lên biếu Bác, mong sao Bác chỉ dẫn kinh nghiệm làm báo cũng như nghiệp vụ công an. Giữa lúc ông và các đồng nghiệp còn đang thấp thỏm chờ tin thì đầu xuân năm 1948, kết thúc đợt công tác ở Nha Công an Trung ương, ông trở về Công an khu thì được đồng chí giao liên đưa vào một phong bì nhỏ. Anh Lê - cán bộ công an ngồi bên liếc nhìn trên phong bì, quay lại phía ông và hỏi: “Cậu làm gì mà Bác gửi thư riêng cho đây này”. Ông cầm phong bì trên tay, ngắm nghía những dòng chữ do chính Bác viết mà không muốn bóc thư vội, muốn để phút cảm động và suy nghĩ kéo dài, đồng thời cũng muốn đoán xem nội dung thư Bác nói gì. Sau đó, ông lấy kéo cắt sát rìa để giữ nguyên phong bì có chữ Bác. Mở thư ra, ông đọc thầm một lượt rồi đọc thầm lượt thứ hai. Thấy vậy, anh Lê ngồi bên giục: “Cậu đọc to lên cho mình nghe nào, hay phạm khuyết điểm gì bị Bác phê bình mà không dám đọc?”. Bị khích và không thể khác được, ông chậm rãi đọc to từng từ, từng chữ:

Gửi đồng chí Hoàng Mai,

Bác đã nhận được thư và báo cháu gửi tặng Bác. Bác thấy có sự cố gắng, đáng hoan nghênh. Nhưng theo cháu nói tờ báo từ 24 đến 32 trang thì dài quá. Cần làm ngắn lại và viết những vấn đề thật thiết thực để mọi người đọc đều có thể hiểu và làm được. Như thế mới có tác dụng giúp đẩy mạnh công tác, đẩy mạnh thi đua. Trên báo, cần thường xuyên làm cho anh chị em công an nhận rõ công an của ta là Công an nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ và dựa vào nhân dân mà làm việc. Nhân dân ta có hàng chục triệu người và hàng mấy chục triệu tai, mắt, tay, chân. Nếu biết dựa vào nhân dân thì việc gì cũng xong. Trên tờ báo phải luôn luôn nhắc nhở anh em rèn luyện tư cách đạo đức. Tư cách người Công an cách mệnh là:

Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính

Đối với đồng sự, phải thân ái, giúp đỡ

Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành

Đối với nhân dân, phải kính trọng lễ phép

Đối với công việc, phải tận tụy

Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo.

Nói tóm lại, là những đạo đức và tư cách mà người Công an cách mạng phải có, phải giữ cho đúng. Những điều đó, chẳng những nên luôn luôn nêu trên báo, mà lại nên viết thành ca dao cho mọi người công an học thuộc, nên viết thành khẩu hiệu, dán tại những nơi các anh em công an thường đến (bàn giấy, nhà ăn, phòng ngủ...). Ngoài ra, công an thường phải kiểm soát nhân viên và công việc của mình. Mỗi công an viên đóng chỗ nào thì cần dạy cho dân quân tự vệ nơi đó cách điều tra, xét giấy, phòng gian... Dạy cho dân ở nơi đó giữ bí mật. Và tự mình phải luôn luôn giữ lễ phép, tránh hách dịch...”.

Dưới thư Bác ký một chữ rõ ràng và đóng con dấu vuông, có in tên Bác, nét mực màu đỏ tươi. Ông vừa đọc xong thì không ai bảo ai, mọi người đều chạy lại để xem tận mắt bức thư của Bác, xem chữ ký, xem con dấu... Ai cũng muốn cầm bức thư xem, có người xin sao chép lại ngay Sáu điều Bác dạy về tư cách người Công an cách mạng.

Thiếu tướng Hoàng Mai kể: “Từ đó, không bao giờ tôi rời bức thư của Bác, lúc nào cái phong bì ấy và bức thư ấy cũng theo sát tôi. Chỉ sau một thời gian rất ngắn tôi đã thuộc lòng bức thư... Hồi đó, nhiều buổi chiều trên chiến khu, sau bữa cơm, nghỉ một lát để chuẩn bị sinh hoạt, bên ngọn đèn dầu le lói, tôi lại giở thư Bác ra đọc, tìm trong thư để kiểm điểm xem mình đã làm đúng chưa. Có những đêm đi chiến dịch, trời mưa tầm tã, đường trơn như đổ mỡ, leo núi ban đêm khấp khểnh bước thấp bước cao, ngủ ở dưới lán trời mưa ướt cả mặt mũi, đi theo bộ đội vượt qua những làn lửa đạn của tiểu liên, đại bác, máy bay địch... Những gian khổ chồng chất của thời kỳ kháng chiến, tôi phải ra sức phấn đấu để vượt qua. Nhưng, nhớ lại lời dạy của Bác mà đã thuộc lòng để tự kiểm điểm lại mình và thế là tôi lại vươn lên, chịu đựng hơn, hăng hái hơn trước, nhiều lúc cười trước khó khăn gian khổ, thấy cuộc đời kháng chiến là vinh quang và vô cùng có ý nghĩa... Thời gian trôi đi, kể từ ngày tôi nhận được thư của Bác, ôn lại những lời dạy trong thư của Bác, lòng tôi dạt dào xúc động như buổi sáng năm xưa và càng thấy công ơn của Bác đối với ngành ta, đối với mỗi một chúng ta thật là to lớn. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng những lời dạy của Bác thì muôn đời còn in sâu trong ký ức của riêng tôi và của toàn thể chúng ta”.

Giờ đây, vị tướng Giám đốc Công an khu 12 cũng đã về với thiên thu. Những dấu ấn, ký ức về những năm tháng thiêng liêng ấy ông truyền lại, gửi lại qua những lời kể, lời dặn dò, chỉ bảo với các thế hệ cán bộ, chiến sĩ CAND. Qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và thời kỳ đổi mới, những thành tích, chiến công học tập, làm theo lời Bác được lực lượng CAND nối tiếp, khắc ghi.

Tại Bảo tàng CAND hiện lưu giữ, trưng bày nhiều kỷ vật của các thế hệ cán bộ công an học tập, làm theo lời Bác, được Bác biểu dương, khen ngợi. Thời kỳ chống Pháp, nhiều công an đơn vị, địa phương có thành tích xuất sắc được Bác tặng thưởng những chiếc cờ tổng phá tề, áo bông và Thanh gươm Quyết thắng... Điển hình như Công an Thừa Thiên được Bác tặng chiếc áo bông (1949); Công an Hải Kiến được Bác tặng Thanh gươm Quyết thắng (1949); Ty Công an Nam Định được Bác tặng áo lụa, áo bông do có thành tích trong công tác diệt tề trừ gian... Những phần thưởng này đã trở thành nguồn động viên, cổ vũ tinh thần vô giá tới phong trào đấu tranh, đảm bảo an ninh trật tự của quân và dân ta thời bấy giờ. Nhiều hiện vật có giá trị như khẩu súng ngắn của Anh hùng Lực lượng vũ trang Mai Thị Rân hay bộ trang điểm dùng để hóa trang của Anh hùng Ngô Thị Huệ mỗi khi đi vào lòng địch rải truyền đơn, nhận tài liệu. Hay, chiếc áo bạt còn nhìn rõ vết thủng trên vạt áo cùng những mảng ố vàng và thâm đen bởi khói ám, dấu vết của trận chiến đấu sống còn với “giặc lửa” là một kỷ vật không thể nào quên đối với những chiến sĩ của lực lượng Cảnh sát PCCC, Công an thành phố Hà Nội tham gia trận chiến dập lửa tại kho xăng Đức Giang ngày 29/6/1966... Mỗi đồ vật mộc mạc, giản dị nhưng chứa chan tình cảm gắn bó đoàn kết, sự thủy chung son sắt, sự phối hợp máu thịt giữa lực lượng CAND cùng người dân trên mọi miền Tổ quốc. Đó không chỉ là những hồi ức gắn liền với cuộc sống của một cá nhân mà là cả một thế hệ cán bộ, chiến sĩ CAND học tập, thấm nhuần lời Bác dạy, đồng thời gửi gắm biết bao câu chuyện về những năm tháng chiến đấu anh hùng với bao mất mát, hi sinh, truyền lửa cho thế hệ hôm nay và mai sau.

Chiến tranh đã lùi xa, đất nước từng ngày đổi mới, hội nhập sâu rộng nhưng cuộc đấu tranh đảm bảo an ninh, trật tự còn nhiều cam go, phức tạp. Máu của những chiến sĩ CAND vẫn đổ xuống vì sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, vì sự bình yên, hạnh phúc của nhân dân. Thế hệ chiến sĩ CAND hôm nay và mai sau nối tiếp truyền thống cha anh, tiếp tục viết nên những trang sử vẻ vang trên trận tuyến đấu tranh bảo vệ an ninh, bình yên cuộc sống, tiếp tục hiện thực hóa những điều dạy của Bác vào công việc, vào cuộc sống, chiến đấu ở từng môi trường, hoàn cảnh cụ thể.

Đăng Trường
.
.
.