Yếu tố tái định hình cuộc cạnh tranh dược phẩm toàn cầu

Thứ Hai, 18/10/2021, 08:56

Đại dịch COVID-19 đã tạo ra một thị trường vaccine hàng nghìn tỷ USD, đem tới cơ hội mở cửa trở lại các nền kinh tế và bắt đầu một cuộc chuyển dịch sang trạng thái bình thường mới. Giống như phần còn lại của thế giới, các hãng dược phẩm lớn phải đối mặt với thực tế bình thường mới sau đại dịch.

Khi các đợt bùng phát biến thể Delta cho thấy tỷ lệ miễn dịch cao vẫn là chưa đủ để ngăn chặn các biến chủng mới của virus SARS-CoV-2, hầu hết các quốc gia phát triển đều đã bắt đầu mũi tiêm tăng cường cho nhóm đối tượng dễ bị tổn thương. Trong khi đó, chỉ mới có 1/3 dân số và khoảng 1% người dân các nước có thu nhập thấp được tiêm vaccine đủ liều theo khuyến cáo.

Cuối tháng 8/2021, Giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) Tedros Adhanom Ghebreyesus cảnh báo rằng "chừng nào tình trạng không công bằng vaccine vẫn còn tồn tại, virus càng có nhiều cơ hội lan truyền và xuất hiện thêm các biến chủng nguy hiểm hơn, có thể lẩn tránh các loại vaccine mà chúng ta đã có, khiến đại dịch kéo dài. Nếu thế giới mắc kẹt trong một cuộc chiến không hồi kết với các làn sóng COVID-19 mới, nhu cầu về vaccine là hoàn toàn có thể dự đoán được, đảm bảo một môi trường kinh doanh sôi động và sinh lời cho các công ty dược phẩm. Pfizer và Moderna dự đoán doanh thu từ vaccine tính riêng trong năm 2021 là 52 tỷ USD và hàng tỷ USD khác mỗi năm từ việc bán các liều tiêm tăng cường.

8.jpg -0
Trụ sở hãng dược phẩm Moderna tại Cambridge, Massachusetts, Mỹ.

Dù Johnson & Johnson và AstraZeneca cam kết sẽ bán vaccine với giá phi lợi nhuận cho tới sau khi đại dịch kết thúc, về mặt kỹ thuật, giai đoạn này với AstraZeneca đã kết thúc từ tháng Bảy và trong tương lai không có lý do gì để các doanh nghiệp này phớt lờ mô hình lợi nhuận trong việc phát triển các loại vaccine mới. Ngoại trừ trường hợp của Sinopharm và Sinovac, các loại vaccine được WHO công nhận đều thuộc các công ty dược phẩm phương Tây. Việc thiếu vắng sự đa dạng các nhà phát triển vaccine phản ánh sự bất đối xứng sâu sắc trong ngành công nghiệp dược phẩm toàn cầu hàng nghìn tỷ USD, nơi 8/10 doanh nghiệp có lợi nhuận cao nhất là tại Mỹ hoặc Liên minh châu Âu (EU).

Bất chấp những thiệt hại to lớn vì gián đoạn kinh tế, dịch COVID-19 có thể thúc đẩy lợi ích lâu dài về năng suất và tăng trưởng bằng cách buộc các doanh nghiệp phải thích ứng, đón nhận công nghệ mới và đón đầu các lĩnh vực mới nổi. Những áp lực này và nhu cầu chưa từng có về vaccine đã kích hoạt sự đổi mới và đầu tư giữa các công ty dược phẩm ngoài phương Tây, với khả năng làm đảo lộn sự độc quyền của phương Tây trong các liệu pháp phòng ngừa và điều trị COVID-19, tác động tới việc tiếp cận dược phẩm trên toàn cầu.

Kể từ khi dịch COVID-19 bùng phát, các "ứng cử viên" vaccine đã được nghiên cứu trên khắp Nam Mỹ (như Cuba và Mexico), châu Phi và Trung Đông (ví dụ Iran và Thổ Nhĩ Kỳ). Tuy nhiên, bên ngoài Mỹ và EU, hầu hết hoạt động phát triển vaccine đang diễn ra ở châu Á. Khu vực này là nơi có ngành dược phẩm phát triển năng động, với khả năng duy trì năng lực sản xuất thuốc chi phí thấp và tiếp cận các công nghệ mới để thực hiện các quy trình sản xuất phức tạp.

Các công ty châu Á cũng sẽ thu được lợi nhuận từ những thỏa thuận sản xuất vaccine được WHO phê duyệt. Các thỏa thuận này bảo vệ công nghệ vaccine, song các nhà sản xuất trong khu vực cũng phải đầu tư vào cơ sở vật chất và nguồn nhân lực cần thiết đáng lẽ được chi cho việc sản xuất vaccine nội địa. Tại Hàn Quốc, SK Bioscience đã chi 132 triệu USD để sản xuất vaccine AstraZeneca và Novavax trong khi loại vaccine dựa trên protein của nước này mới bắt đầu các thử nghiệm lâm sàng cuối cùng.

Tương tự, hãng Daiichi Sankyo của Nhật Bản đã có thỏa thuận sản xuất với AstraZeneca và một nhà phát triển vaccine khác của Nhật Bản, trong khi vaccine sử dụng công nghệ mRNA của riêng họ đã gần hoàn thành thử nghiệm trên người. Các công ty Hàn Quốc cũng sẽ có dây chuyền sản xuất vaccine mRNA mới do Samsung Biologics triển khai theo thỏa thuận với Moderna. Một số thỏa thuận sản xuất này đã bộc lộ những thiếu sót của các đối tác trong khu vực. Tuy nhiên, những trường hợp này càng nhấn mạnh thực tế đại dịch đã giúp các doanh nghiệp có cơ hội vô giá nhằm đẩy nhanh việc tiếp thu các kinh nghiệm trong phát triển vaccine. Các nhà sản xuất ở phương Tây như Johnson & Johnson hay Moderna cũng không tránh khỏi những thách thức này.

Các công ty dược phẩm châu Á đang trên đà phát triển hậu đại dịch với những hành trang tốt hơn, và có kinh nghiệm hơn để cạnh tranh với phương Tây. Các thỏa thuận sản xuất vaccine và cả nguồn vaccine nội địa là những nguồn lực vô giá về chuyên môn, công nghệ, cơ sở vật chất và lợi nhuận khác nhằm thúc đẩy quá trình nghiên cứu và phát triển (R&D) các liệu pháp mới trong điều trị COVID-19 và các bệnh khác. Sự đa dạng trong nghiên cứu tại các công ty dược phẩm có thể đem lại nguồn lực mạnh mẽ và tác động lan tỏa có lợi cho việc phát triển các phương pháp điều trị nhiều căn bệnh khác nhau.

Sự bứt phá về tăng trưởng của ngành dược phẩm của châu Á đến vào thời điểm có thể xem là thích hợp, khi sự thay đổi cấu trúc sâu sắc trong thị trường dược phẩm toàn cầu làm suy yếu lợi thế truyền thống của phương Tây. Trong 10 năm qua, nhiều bằng sáng chế một số loại thuốc sinh lời cao nhất của các hãng dược phẩm lớn đã bắt đầu hết hiệu lực, thực tế làm giảm doanh thu cần thiết để sản xuất và duy trì lợi nhuận từ các sản phẩm có giá trị cao.

Trong khi đó, các thị trường mới nổi, nơi có nhu cầu cao về thuốc gốc rẻ hơn, đang chứng kiến sự tăng trưởng vượt bậc. Những xu hướng này buộc các "gã khổng lồ" dược phẩm của phương Tây phải đa dạng hóa theo hướng sản xuất thương mại các loại thuốc gốc, lĩnh vực mà họ thiếu lợi thế của các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.

PV (theo The Diplomat)
.
.
.