Nhà nghiên cứu - phê bình văn học Lã Nguyên: Trí thức ở ta phần đông là trí thức bình dân

Thứ Ba, 21/09/2021, 10:20

Dẫu có “ngổn ngang trăm mối” như thế nào đi chăng nữa thì cuộc sống vẫn cứ tiếp diễn. Và một năm học mới cũng đang mở ra. Mặc dù đã có chính sách giáo dục mới, chương trình sách giáo khoa (SGK) mới, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD - ĐT) mới…, nhưng câu chuyện về giáo dục, về dạy - học văn vẫn cứ không thôi gây bất an trong cộng đồng xã hội.

Từ góc nhìn cá nhân, phó giáo sư, tiến sĩ, nhà giáo, dịch giả, nhà nghiên cứu - phê bình văn học La Khắc Hòa (bạn đọc thường biết đến ông qua bút danh Lã Nguyên) đưa ra những chia sẻ đáng suy ngẫm.

lã nguyên (la khắc hòa).jpg -0
Lã Nguyên (La Khắc Hòa).

- Theo ông thì bài toán giáo dục phải được giải bắt đầu từ đâu và giải như thế nào?

- Nhà nghiên cứu - phê bình văn học Lã Nguyên: Mới đây, Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu ngành giáo dục phải “học thật, thi thật” để có “nhân tài thật”. Tức là ông đã phát hiện ra căn bệnh trầm kha của giáo dục Việt Nam. Căn nguyên dễ thấy nhất là tình trạng an sinh xã hội. Thu nhập của giáo giới quá thấp. Lấy lương cơ bản (1.490.000 đồng) nhân với hệ số được hưởng, ta sẽ biết ngay lương khởi điểm của giáo viên có bằng cử nhân (hệ số 2.34) là 3.486.600 đồng. Một giáo viên cấp ba nói với tôi, rằng năm nay anh ta vào tuổi 60, cuối năm về hưu, đã đứng lớp hơn 40 niên khóa, vẫn đang làm tổ trưởng chuyên môn, lương tháng tính tất tật được 10 triệu. Cậu học trò tôi có bằng tiến sĩ, đứng lớp hơn 20 năm, hiện làm chủ nhiệm bộ môn lý luận văn học ở một trường đại học cũng chỉ nhận cả lương lẫn các phụ cấp mỗi tháng 10 triệu thế thôi. Lương thấp, thì người ta kiếm việc làm thêm, tìm cách cải thiện đời sống để trụ lại với nghề. Việc làm thêm phổ biến nhất của giáo viên ở những năm 80 của thế kỉ trước là chăn nuôi và chạy chợ. Họ soạn bài qua quýt, lên lớp cũng qua quýt cứ như làm nghề phụ. Giờ người ta không ngồi chợ nữa, nhưng tôi thấy vô khối giáo viên lên mạng bán hàng online. Ai không bán hàng online thì dạy thêm. Trò kém hay giỏi đều phải học thêm tuốt. Thương nhất là các cháu chưa vào lớp 1 đã phải đi học thêm! Hoạt động nghề nghiệp vậy là bị biến thành hoạt động mưu sinh tầm thường. Mọi lời nói về sự đẹp đẽ, cao cả của người thầy trước học trò hóa thành lời giả dối.

Căn nguyên khác làm nảy sinh bệnh “dạy giả, học giả” cũng là một loại bệnh mà ta đã biết từ lâu: bệnh thành tích. Thật ra đó là bệnh dối trá. Vào thập niên 1960, nó lộ ra ở các phong trào xây dựng “lá cờ đầu” và “điển hình tiên tiến”. Đến đầu những năm 1990, bệnh thành tích bộc phát thành nạn “thi giả, học giả”. Niên học 1989 - 1990, Bộ GD - ĐT triệu tập các giáo sư đầu ngành làm bộ sách “Đề thi đại học” cho tất cả các môn thi. Từ đấy, lò luyện thi mọc lên như nấm và người ta thấy các loại sách “giải đề” được bày bán đầy ắp trong các cửa hàng sách.

Góp phần làm cho căn bệnh “dạy giả, học giả, thi giả” ngày càng thêm trầm trọng là cơ chế bổ nhiệm cán bộ và tuyển dụng công chức của các cơ quan công quyền dựa vào bằng cấp, chứ không phải là năng lực thực sự. Đây là chỗ hổng giúp đám người kém cỏi, nhờ lắm “tiền tệ”, nhiều “quan hệ”, vẫn có thể mua bán văn bằng và chứng chỉ để tiến thân. Vụ mua bán văn bằng xảy ra gần đây ở Đại học Đông Đô là thí dụ. Phần đông không mua, mà đi học hẳn hoi, nhưng họ chỉ “giả học”, học cốt để có tấm “bằng thật”, chứ không phải để lấy tri thức sử dụng trong chuyên môn. 

- Ông nói gì về mặt bằng chất lượng của đội ngũ tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư ở ta, đặc biệt là khi những năm gần đây có vẻ được “tháo khoán” về số lượng?

- “Dạy giả, học giả, thi giả” không chỉ có ở các cấp học phổ thông, mà là tình trạng chung tồn tại ngay trong các trường đại học, ở những bậc đào tạo cao nhất. Hệ lụy là, hết khóa này đến khóa khác, các trường đại học của ta chỉ có khả năng đào tạo ra một đội ngũ trí thức bình dân. Những người có học vị tiến sĩ, được bổ nhiệm các chức danh phó giáo sư, thậm chí giáo sư, nhưng thành thật mà nói, phần đông vẫn chỉ là những trí thức bình dân. Tôi nói phần đông, chứ không đánh đồng tất cả. 

Trí thức bình dân có hai nhược điểm lớn. Thứ nhất, họ có thể biết đủ thứ, nhưng không có thứ gì hiểu cặn kẽ, biết tường tận, có đầu có đũa, vươn tới trình độ hàn lâm. Vì thế, thứ hai, họ thường xuê xoa, không có khả năng đối thoại và tranh luận khoa học theo các chuẩn mực nghiêm ngặt. Cho nên, nước ta tuy cũng có nhiều nhà khoa học do phấn đấu cá nhân mà vượt ra ngoài khuôn khổ bình dân, nhưng không sao hình thành được học giới và các trường phái nghiên cứu. Có lẽ không oan khi một số cơ sở đào tạo sau đại học thuộc loại lớn nhất nước bị người ta gọi là “lò ấp tiến sĩ”. Các chủ nhân ông của những “lò ấp” như thế chắc chắn phải chịu trách nhiệm một phần về tình trạng “dạy giả, học giả, thi giả” đang thành dịch bệnh hôm nay.

- Bài toán giáo dục phải được giải như thế nào?

- Tôi cho rằng trước hết Bộ GD - ĐT phải thay đổi tận gốc cách tổ chức thi cử, từ việc ra đề, làm đáp án, cho tới chấm thi như hiện nay để chống lại việc dạy - học theo những bài làm mẫu có sẵn. Thứ đến, thay vì dựa vào bằng cấp, các cơ quan công quyền nên dựa vào năng lực và thực tài của công dân để tuyển dụng công chức, bổ nhiệm cán bộ; và nhà nước nên từng bước nâng cao thu nhập của giáo viên, sao cho họ đủ sống bằng lương để có thể yên tâm với nghề. Thứ nữa, về lâu dài, phải nâng cao trình độ của giảng viên đại học, thay thế đội ngũ trí thức bình dân bằng đội ngũ trí thức thực sự.

- Nếu nói theo tên một cuốn sách nghiên cứu lý luận văn học của ông, thì ông nói gì về “số phận lịch sử” của môn văn trong nhà trường?

- Cứ nhìn vào vị thế của Hội Nhà văn Việt Nam so với các hội nghệ thuật khác, ta sẽ thấy ngay rằng văn học có tầm quan trọng như thế nào trên sân chơi văn hóa và đời sống tinh thần của dân tộc. Xã hội coi trọng văn học, thì văn học tất sẽ có vị trí quan trọng trong nhà trường. Tuy nhiên, nhìn lại hoạt động dạy - học trong nhà trường, cả ở phổ thông lẫn đại học, ta sẽ thấy số phận của môn văn đã thay đổi rất nhiều từ những năm 1960 cho tới nay. Có ba sức mạnh cơ bản tạo nên sự thay đổi ấy: hệ tư tưởng quốc gia, lực lượng biên soạn sách và đối tượng dùng sách.

Văn học là hình thức tư tưởng hệ. Từ sau năm 1954, ở miền Bắc, mọi cuốn lịch sử văn học đều được viết ra từ ánh sáng của hệ tư tưởng nhà nước. Theo đó, lịch sử văn học Việt Nam, cũng như văn học nước ngoài, phải là lịch sử của những sáng tác viết về chủ đề yêu nước đánh giặc mà đỉnh cao là văn thơ cách mạng và văn thơ hiện thực xã hội chủ nghĩa. Trước năm 1986, học sinh phổ thông chỉ được học văn học nước ngoài và văn học cổ điển Việt Nam rất sơ sài. Sau năm 1986, Việt Nam đổi mới và hội nhập, số phận của môn văn trong nhà trường mới thực sự có bước ngoặt quan trọng. Lần đầu tiên, văn thơ lãng mạn trước năm 1945, văn học các nước Âu - Mĩ được đưa vào dạy - học ở các cấp phổ thông. Ở các trường đại học và cao đẳng có đào tạo ngành văn, đã dần xuất hiện nhiều giáo trình viết về văn học Việt Nam thời kì Đổi mới, văn học miền Nam giai đoạn 1954 - 1975; các trào lưu văn học của chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại được đưa vào chương trình giảng dạy và trở thành nguồn cung cấp đề tài cho nhiều luận văn, luận án của sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh. Tuy nhiên chương trình môn văn trong nhà trường vẫn gạt ra bên ngoài những xu hướng sáng tác và các hiện tượng văn học được cho là không phù hợp với mỹ học Mác - Lênin.

Sáng tác văn học muốn thâm nhập vào nhà trường phải đi qua cửa ngõ của các nhà biên soạn chương trình và SGK. SGK thời tôi học thể hiện rất rõ ý đồ của những người biên soạn muốn nối văn học với chính trị và đạo đức, biến bài học văn học thành phương tiện giáo dục lòng căm thù giặc, tinh thần lạc quan và tình yêu chế độ mới, yêu Đảng, yêu lãnh tụ. Cho nên, chức năng thẩm mỹ của nhiều bài văn, bài thơ chọn đưa vào SGK chưa được chú trọng đúng mức. Già nửa thế kỉ trôi qua, tôi vẫn nhớ như in năm lớp 10 (tức lớp 12 bây giờ) mình bị hành hạ thế nào khi phải học bài thơ “Anh Tài Lạc” của Huy Cận. Vào giữa những năm 1980, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh làm tổng chủ biên bộ SGK văn học cải cách. Ông chủ trương chỉ đưa vào SGK loại văn học thẩm mỹ và gạt ra ngoài những tác phẩm nghị luận chính trị và xã hội thuần túy. Bộ SGK văn học ra đời vào những năm 1990 do giáo sư Trần Đình Sử chủ biên làm một cuộc đổi mới quyết liệt ở hai điểm. Thứ nhất, học văn, ngoài học văn học thẩm mỹ, còn là học văn hiến của dân tộc; danh mục tác phẩm trong chương trình dạy - học, vì thế được mở rộng. Thứ hai, dạy văn theo phương pháp đọc - hiểu văn bản. Suốt một thế kỉ, từ thời Pháp thuộc cho tới những năm 1980, ở Việt Nam, dạy - học văn thực chất là giảng văn. Giảng văn là thầy giảng, trò nghe, trò chỉ cần ghi nhớ những lời thầy giảng, tức là thầy đọc văn bản và học văn bản hộ trò. Bộ SGK mới do Trần Đình Sử làm tổng chủ biên đặt giáo viên vào vị trí của người hướng dẫn cách đọc. Dưới sự hướng dẫn của thầy, trò phải làm việc trực tiếp với văn bản để sau khi đọc, mỗi trò có một văn bản văn học riêng của mình.

Rất tiếc, phương pháp đọc - hiểu văn bản do Trần Đình Sử đưa ra vừa gặp phải sức ỳ của thói quen giảng văn từng tồn tại hàng trăm năm trong hoạt động dạy - học, lại vừa gặp phải lúc thời thế đã thay đổi, quan hệ giữa độc giả với văn học không còn được như trước nữa. Và như đã nói ở trên, kể từ khi Bộ GD - ĐT tổ chức biên soạn bộ “Đề thi đại học”, thì dạy - học để đi thi dường như đã trở thành mục đích quan trọng nhất của hoạt động dạy - học văn trong nhà trường. Cho nên, tôi dám chắc, văn học và tình yêu văn học hiện đang sống rất thoi thóp trong lòng người học ở cả phổ thông lẫn đại học. Làm thế nào để vực dậy tình yêu văn học trong tâm hồn học trò cũng là bài toán mà ngành giáo dục cần tìm lời giải.

- Trân trọng cảm ơn ông!

Hoàng Đăng Khoa (thực hiện)
.
.
.