Đồ "quê" cất tiếng

Thứ Hai, 17/02/2020, 09:52
Trong khi cuộc sống xô bồ, nhiều thứ đồ vốn gắn bó với người nông dân nơi thôn quê, vùng dân tộc bị mất đi. Không ít thứ đồ nay chỉ còn trong quá vãng. Song với tinh thần gìn giữ, bảo tồn, nhiều người yêu thiên nhiên, món đồ nhà quê đã quyết tâm gìn giữ. Bằng sự dày công và nhiệt huyết, những bảo tàng tư với đậm chất quê ra đời.


Vất vả sưu tầm kỷ vật

Ngôi nhà sàn của ông Nguyễn Đăng Luận ở phường Minh Tâm - thành phố Yên Bái (tỉnh Yên Bái) giờ đây đã trở thành  một địa chỉ quen thuộc của những người yêu thích "đồ nhà quê".

Ông Luận là cán bộ Công an đã nghỉ hưu. Trước đây công việc thường xuyên gắn bó với bà con miền núi nên ông luôn muốn khám phá đời sống sản xuất của họ và có niềm yêu thích đặc biệt với những đồ vật mà đồng bào các dân tộc tự sản xuất để phục vụ sinh hoạt gia đình.
Du khách thăm khu trưng bày nông cụ ở Bảo tàng làng quê.

Khi đó, hễ thấy món đồ nào người dân bỏ đi, ông liền xin về. Khi nghỉ hưu thì ông dồn hết tâm sức cho việc sưu tầm. Công việc tỉ mẩn, suốt ngày "ăn ngủ" với các món đồ nhà quê, nên nhiều người gọi ông là "gã nhà quê" chăm chỉ!

Chính ngôi nhà sàn thoáng mát cũng được ông mua của người Tày rồi về sửa chữa, cơi nới thêm cho rộng rãi, vừa làm chỗ ở, vừa là nơi trưng bày.

Ông Luân tâm sự: "Tôi có điều kiện đi nhiều nơi, nhận thấy mỗi dân tộc có một nét văn hóa đặc sắc riêng. Ngay từ những ngày đầu công tác vùng cao, trong tâm thức tôi đã có ý định lưu giữ những đồ vật của bà con dân tộc miền núi với mong muốn gìn giữ để con cháu mai sau biết ông cha ta đã có một kho "văn hóa nông cụ rất đậm đà".

Ông Phúc luôn nâng niu những món đồ xưa cũ..

Thời gian đầu, sau mỗi chuyến công tác và ở cùng bà con, ông đều mang về một thứ, lần thì cái mõ trâu, khi thì cái chổi bằng lá cọ cũ kỹ hay chỉ là chiếc lồng chim đan bằng lõi cây tế... Đến khi gậm giường, nóc tủ, gác xép trong ngôi nhà nhỏ của mình đã chật ních, không có chỗ chứa nữa thì ông mang sang gửi nhờ hàng xóm. Giờ có nhà mới, rộng rãi ông mới "rước" về, thành lập một bảo tàng của cá nhân với hàng trăm hiện vật.

Ngoài ra, ông Luận còn có vài chục chiếc đèn cổ của người thiểu số Tây Bắc. Sưu tầm cổ vật là thú chơi văn hóa, cũng là niềm say mê của ông Luận. Và hơn hết, đó là sự gìn giữ những món đồ gần gũi với cuộc sống của người nông dân vùng vao.

Cũng tâm huyết, ông Vi Văn Phúc, người con dân tộc Thái ở thị trấn Con Cuông, huyện Con Cuông (Nghệ An) khát khao gìn giữ bảo lưu văn hóa và đã lập một bảo tàng "hoành tráng" nơi quê ông.

Từ năm 1985, trong quá trình công tác, ông Vi Văn Phúc đã tận mắt thấy không ít đồ nông cụ của người dân tộc Thái ở miền Tây Nghệ An bị vứt bỏ. Nào là cày, bừa, cuốc, xẻng. Nào là dao, nỏ, cung, tên. Rồi cối xay gạo, xay đậu, khung cửi. Hay cũng có khi là những chiếc ping, lủng, sày người dân dùng để xúc cá tôm dưới sông, suối.

Vậy là ông nghĩ cách để xin về, gìn giữ ở nhà. Rất nhiều người cứ thắc mắc, ông không còn làm ruộng, làm nông nữa, mà là một vị Phó Bí thư Đảng Ủy, Chủ tịch UBND huyện Con Cuông, rồi Phó Giám đốc Sở Kế hoạch Đầu tư tỉnh Nghệ An... ông giữ đồ làm gì? Ai hỏi ông cũng bảo: "Phải giữ hồn cho người Thái chứ. Vậy thì tôi phải sưu tầm".

Trong những chuyến đi công tác vùng miền, nào là Quỳ Châu, Quỳ Hợp, nào Tương Dương, Kỳ Sơn… được tiếp cận với nền văn hóa đa dạng nên "cái duyên" sưu tầm cổ vật của ông cũng thuận lợi. Ấy vậy, cũng có người nói ông "năng nhặt" như thế là có ý đồ gì? Biết được thắc mắc ấy, ông bảo luôn với người đó: "Tôi là người dân tộc Thái, tôi tự hào và tôi thấy có trách nhiệm phải giữ những món đồ này".

Ông Phúc cho hay, trong quá trình sưu tầm ông gặp nhiều khó khăn. Không chỉ bởi các cung đường xa xôi, nhiều bản làng bị chia cắt, tiếp cận rất khó khăn, mà còn bởi ý thức gìn giữ của bà con rất kém. Họ cứ không thích, không cần là bỏ. Nên tôi đã lân la đi hỏi nhiều thấy cúng, nhiều gia đình có điều kiện và được họ giúp đỡ nhiệt tình.

Giữ cho đời sau

Tôi đã gặp không ít người có tâm huyết, mỗi người một vẻ, nhưng chung đam mê, gìn giữ cho đời sau biết về những món đồ đã từng gắn bó với công việc sản xuất của nhà nông, với cha ông một thuở. Ví dụ ông Nguyễn Quang Mạnh, chủ hiệu ảnh Vinh Hoa (TP Bắc Giang) đang sở hữu một bảo tàng nhỏ với hơn 3000 hiện vật.

Ông Nguyễn Đăng Luận bên bộ đèn cổ.

Hay cô giáo Ngô Thị Khiếu đã lập cả một Bảo tàng Đồng quê ở làng Bỉnh Di, xã Giao Thịnh (Giao Thủy - Nam Định). Từ một phòng truyền thống để trưng bày hiện vật đến thành lập bảo tàng tư nhân có diện tích hơn 6000m2, với các khu trưng bày trang trọng, ngăn nắp, mỗi năm đón hàng trăm lượt du khách là cả một quá trình phát triển dài lâu.

Một người khác là ông Trần Phú Sơn, ở khu tập thể Vĩnh Hồ (quận Hai Bà Trưng - Hà Nội), chỉ vì thương đồ "nhà quê", và thấy lạc lõng khi về quê, đường làng ngõ xóm bị bê tông hóa hết, cái mộc mạc chất phác mai một, từ năm 1986 ông đã gom nhặt và có phòng trưng bày cá nhân để mọi người được chiêm ngắm.

Cả nước, ước tính có hơn chục bảo tàng tư nhân như thế. Mỗi người đều có một vùng quê để luyến nhớ, yêu thương. Đặc biệt đồng bằng Bắc Bộ là vùng trầm tích văn hóa, với nền văn minh lúa nước lâu đời. Tốc độ đô thị hóa nhanh chóng, sự lên ngôi của các thứ đồ nhựa tiện lợi, khiến bao món đồ vốn rất gắn bó trong đời sống sinh hoạt hằng ngày của mỗi người dân không còn "đất sống". 

Bà giáo Ngô Thị Khiếu gắn bó với vùng đất Nam Định, bà thấy nhiều đồ dùng bị vứt lăn lóc, có nhiều món bị người thu mua đồng nát đến mua với giá rất rẻ để tái chế. Bà Khiếu chia sẻ: "Từ năm 1990, tôi thấy cần phải lưu giữ lại, món thì xin, món thì mua để cho con và các cháu biết được trên đời có những thứ đồ như vậy. Đó thật sự là những món đồ đã cùng trải qua một nắng hai sương với người nông dân. Càng làm thì càng say, tôi càng nghĩ nếu không lưu giữ thì nhiều món đồ sẽ không bao giờ còn".

"Bảo tàng Đồng quê" của bà Khiếu chính thức hoạt động từ đầu năm 2012. Khách đến tham quan đều không khỏi ngạc nhiên về sự đa dạng của các khu trưng bày. Có thể kể đến điểm nhấn khuôn viên bên ngoài, chính là năm khu nhà chính.

Thứ nhất là mô hình ngôi nhà tranh vách đất của tầng lớp bần nông, có gian bếp truyền thống nhỏ, thấp. Thứ hai là kiểu nhà trung nông gồm nhà chính và một nhà ngang, phía trước có sân gạch, có mảnh vườn nhỏ, có cổng và hàng rào bằng cây duối, cây dâm bụt. Trong nhà trung nông có chỗ nấu rượu, nơi đặt bồ thóc, khung dệt vải, cối xay…

Khu thứ ba là nhà của địa chủ, có nền cao, tường xây, mái ngói Tây, bày sập gụ, tủ chè, giường lớn, có sân phơi rộng, thóc đầy bồ, ngô đầy hòm. Hàng nghìn kỷ vật, các hạng mục công trình đều được bố trí khoa học, có sức gợi, tính giáo dục cao. Để có được địa chỉ mỗi năm đón hàng trăm lượt khách đến thăm mỗi năm, bà giáo Ngô Thị Khiếu đã phải vượt qua rất nhiều trở ngại.

Không ít nhà nghiên cứu văn hóa đã cho rằng, việc sưu tầm, xây dựng đã khó, việc "nuôi" cho bảo tàng có sức sống lại là thử thách khó khăn hơn bội phần. Bà Khiếu đã phải nhờ chồng, các con và các nhà hảo tâm để có nguồn quỹ trả lương cho những nhân viên làm việc tại đây. Họ là những người mà bà đã dày công tìm kiếm, vì bà mong muốn nhân viên bảo tàng đều phải là người có trình độ chuyên môn ngành bảo tàng.

Mùa xuân về thăm những bảo tàng tư nhân, "nhận mặt" những món đồ mà nhiều người từng gắn bó, cũng là cách sống lại những ký ức, kỷ niệm. Từ đó nhớ về thời gian khó, giản dị, để sống cộng sinh với thiên nhiên và trân trọng sức lao động.

Nguyễn Văn Học
.
.
.