Các Dự án chậm tiến độ, tăng tổng mức đầu tư của ngành giao thông:

Do thiếu kinh nghiệm hay buông lỏng quản lý?

Thứ Hai, 03/06/2019, 07:30
Tính đến thời điểm hiện nay, ngành Giao thông có 7 dự án quan trọng đang nằm trong nhóm chậm tiến độ, tăng tổng  mức đầu tư. Điều đáng nói 5/7 dự án này thuộc về các dự án đường sắt đô thị lần đầu được triển khai ở hai thành phố lớn Hà Nội và TP Hồ Chí Minh.


Điểm mặt các dự án nhiều lần lỡ hẹn với dân

Ngoài 2 dự án đường bộ và Cao tốc Trung Lương-Mỹ Thuận và Cao tốc Bến Lức-Long Thành, thì đến nay 5 dự án chậm tiến độ và tăng tổng mức đầu tư với mức “khủng” được nhắc tới nhiều nhất là 5 dự án đường sắt đô thị.

Đối với 2 Dự án đường sắt đô thị Thành phố Hồ Chí Minh, Tuyến số 1 giá trị sản lượng đạt 63.91% hiện đang thanh toán từ vốn tạm ứng ngân sách thành phố 2.158 tỷ đồng trong khi chờ hoàn tất thủ tục điều chỉnh dự án. Tuyến số 2 có 9 gói thầu, trong đó Gói thầu CPI (xây dựng toà nhà Văn phòng, Khu Depot) đang nghiệm thu, bàn giao đưa vào sử dụng; các gói thầu còn lại đang triển khai công tác lựa chọn nhà thầu, tuy nhiên chưa thể triển khai do đang vướng mắc về việc điều chỉnh dự án và nguồn vốn cho dự án.

Ngày 9-4-2019, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã trình Chính phủ xin ý kiến về dự thảo hướng dẫn Ủy ban nhân dân thành phố HCM tổ chức thẩm định và phê duyệt theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng.

Dự án đường sắt đô thị Hà Nội tuyến Cát Linh- Hà Đông, cho đến thời điểm này cũng đã hoàn thành 99% khối lượng xây lắp, riêng vật tư, thiết bị đã chuyển về đến công trường đạt khoảng 99% và lắp đặt đạt 90% khối lượng thiết bị; đang vận hành, chạy thử để đưa vào khai thác thương mại trong năm 2019. Tuy nhiên dự án vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc cần giải quyết và có nguy cơ kéo dài do tổng thầu triển khai thực hiện công việc chưa theo đúng cam kết.

Dự án đường sắt Cát Linh Hà Đông lại tiếp tục lỡ hẹn thời gian khai thác chính thức.

Các vướng mắc cụ thể tập trung ở việc chưa hoàn thiện hồ sơ nghiệm thu, chưa cung cấp một số tài liệu chứng minh an toàn, chứng nhận an toàn tích hợp để đăng kiểm và chứng nhận an toàn hệ thống; chưa hoàn thiện quy trình vận hành, bảo dưỡng...

Bộ GTVT đã và sẽ tiếp tục quyết liệt chỉ đạo tổng thầu và các bên liên quan thực hiện. Kế tiếp là Dự án đường sắt đô thị Hà Nội tuyến số 3 Nhổn-Ga Hà Nội. Đến thời điểm hiện tại, tổng tiến độ chung dự án mới chỉ đạt trên 49% và dự kiến kéo dài đến cuối năm 2022. Hiện nay, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã có văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ duyệt điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án. Cái tên cuối cùng được nhắc tới là Dự án đường sắt đô thi Hà Nội tuyến số 1 (Yên Viên-Ngọc Hồi).

Hiện tại tư vấn đang hoàn thiện hồ sơ gói thầu cập nhật thiết kế kỹ thuật, dự toán, hồ sơ mời thầu của gói thầu chuẩn bị mặt bằng và xử lý nền đất yếu khu Tổ hợp Ngọc Hồi (HURC1-101); đang thực hiện thanh quyết toán Hợp đồng tư vấn giám sát khảo sát (HURCI-006). Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giao thông Vận tải đang tổng hợp ý kiến của các bộ, ngành để báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét có ý kiến chỉ đạo về kế hoạch thực hiện làm cơ sở để triển khai các bước tiếp theo.

Năng lực chủ đầu tư còn hạn chế...

Theo đánh giá từ Bộ GTVT, đa phần các dự án kể trên đều là các dự án lớn và công nghệ phức tạp lần đầu tiên được xây dựng tại Việt Nam, do đó chưa có kinh nghiệm quản lý thực hiện. Năng lực và kinh nghiệm quản lý thực hiện của Chủ đầu tư đối với các dự án lớn về lĩnh vực đường sắt đô thị rất mới và còn hạn chế. Các tư vấn tham gia thực hiện dự án đều là các tư vấn lớn, tuy nhiên thiếu kinh nghiệm về hệ thống quản lý và quy trình thủ tục ở Việt Nam dẫn đến trong quá trình thực hiện gặp nhiều vướng mắc.

Do chưa có kinh nghiệm với loại hình công trình đường sắt đô thị nên cả chủ đầu tư và tư vấn lập dư án tính toán tổng mức đầu tư chưa xác thực với tình hình thực tế, phải điều chỉnh nhiều nội dung thiếu sót và chưa phù hợp trong thiết kế cơ quan ban đầu. Thậm chí, vướng mắc chậm kéo dài công tác giải phóng mặt bằng, di chuyển hạ tầng kỹ thuật ngầm, nổi, cây xanh, đặc biệt là công tác giải phóng mặt bằng các ga ngầm; công tác giải phóng mặt bằng kéo dài dẫn đến thời gian thực hiện kéo dài ảnh hưởng đển yếu tố trượt giá.

Bên cạnh đó, công tác đấu thầu lựa chọn nhà thầu gặp nhiều vướng mắc, khó khăn do các ràng buộc phực tạp quy chế đấu thầu của các nhà tài trợ, hệ thống quy chuẩn còn nhiều bất cập... Việc cập nhật tỷ giá ngoại lê, tỷ giá tính tóan các chi phí dự phòng, rủi ro trượt giá cũng được cập nhật theo quy định mới, ảnh hưởng chung đến việc tăng tổng mức đầu tư.

Sau khi chỉ ra nguyên nhân, Bộ GTVT thẳng thắn cho rằng, về cơ bản, việc để chậm tiến độ, tăng tổng mức đầu tư các dự án trách nhiệm trước tiên thuộc về các chủ đầu tư. Tuy nhiên, các yếu tố khác cũng là nguyên nhân chính gây ra việc chậm tiến độ, tăng tổng chức mức đầu tư.

Cụ thể như vấn đề chậm giải phóng mặt bằng, công tác tái định cư kéo dài, thiếu mặt bằng sạch bàn giao cho nhà thầu thi công là nguyên nhân chính dẫn đến chậm tiến độ tại nhiều dự án, đặc biệt là các dự án đường sắt đô thị, trách nhiệm thuộc địa phương, chủ đầu tư thực hiện công tác giải phóng mặt bằng.

Nguyên nhân nữa của việc tăng tổng mức đầu tư còn là do chất lượng công tác lập, thẩm định dự án đầu tư. Cơ chế thực hiện các dự án đặc biệt là dự án ODA còn nhiều bất cập. Kế hoạch vốn ODA hàng năm không được bố trí đủ làm chậm trễ thanh toán cho các nhà thầu, tình trạng thiếu vốn đối ứng kéo dài dẫn đến tiến độ thi công bị ảnh hưởng; công tác đấu thầu lựa chọn nhà thầu gặp nhiều vướng mắc, khó khăn do các ràng buộc phức tạp quy chế đấu thầu...

Đặng Nhật
.
.
.