Thiện tâm không vô ích

Chủ Nhật, 08/05/2005, 08:28

Có lẽ đến bây giờ vẫn không phải là lỗi thời cái ý thức trách nhiệm đầy nhân văn của những quân nhân: Hoàn thành vô điều kiện chức phận của mình, dù có hy sinh, dù có thể ai đó từ bên ngoài nhìn vào tưởng như đó là những hành động vô nghĩa. Không vô nghĩa đâu thiện tâm, không vô nghĩa đâu những việc làm thiện chí. Bởi lẽ, như cha ông xưa từng nói, cứ làm điều thiện đi, không thành công thì ta cũng thành nhân!

Không biết tôi có chủ quan hay không nhưng tôi luôn tin rằng, ai từng du học ở Liên Xô cũ đều không thể không biết tới nhà thơ, nhạc sĩ kiêm ca sĩ Bulat Okudjava. Ông là một cựu chiến binh trong chiến tranh Vệ quốc, sinh ra lại đúng ngày 9/5, ngày mà từ năm 1945 đã trở thành dịp kỷ niệm chiến thắng của Liên Xô trước chủ nghĩa phát xít (tất nhiên, năm sinh của ông không phải là năm 1945 mà là năm 1924). Ông đã mất năm 1997 nhưng mỗi dịp tháng 5 về, người Nga lại nhớ tới ông như một tác giả của những ca khúc thơ mà cho tới giờ vẫn là những miền cứu rỗi phần hồn thanh tịnh trong những phút gian nguy. Ý tưởng chính trong mọi sáng tác của ông là sự tử tế và thiện tâm không bao giờ vô ích, ngay cả khi ta chỉ là "chú lính giấy".

Okudjava gốc Gruzia, nhưng gần như suốt đời gắn bó với khu phố cổ Arbat của Moskva, trừ những năm phải cầm súng ra chiến trường. Chính môi trường văn hoá Nga la tư thị thành cổ kính kết hợp với dòng máu Capcaz đã tạo cho cung đàn của Okudjava những giai điệu độc đáo trong làng thơ Nga nửa cuối thế kỷ XX. Xuất hiện trên thi đàn Liên Xô những năm cuối thập kỷ 50 - đầu thập kỷ 60 của thế kỷ trước, Okudjava khác nhiều tên tuổi thi nhân cùng thế hệ, không vươn tới sự đông đúc, náo nhiệt, mà dường như chỉ muốn thu hẹp không gian thưởng thức nghệ thuật của mình vào thính phòng và ấm cúng.

Bài thơ nào của ông cũng mang trong mình một nhạc điệu riêng, không quá cầu kỳ, phức tạp, nhưng tinh tuý và tinh tế. Dường như ông trò chuyện riêng tư cùng công chúng, nói với họ những nỗi niềm của các tâm hồn hướng thiện phải trải qua mọi "lửa, nước và ống đồng" của cuộc sống đời thường vốn cam go cả về vật chất lẫn tinh thần. Mảng đề tài chiến tranh cũng chiếm một phần quan trọng trong các sáng tác của Okudjava và các bài thơ-hát về đề tài này của ông đã trở thành những điểm tựa tinh thần khá quan trọng cho người dân Liên Xô trước kia và người Nga hiện nay để họ bảo tồn tính nhân đạo truyền thống của mình.

Người lính già đầu bạc Bulat kể mãi những chuyện chiến tranh với nỗi xót xa và quả cảm khác thường, tạo nên những âm ba vô tận cho nhiều thế hệ người nghe và đọc thơ ông. Tài năng và lòng thành thật bất chấp mọi hoàn cảnh đã giúp cho tên tuổi Okudjava in hằn dấu ấn vào tâm trí công chúng, tạo nên cho ông một thành công hết sức bền vững. Ngay cả trong cơ chế mới của thời "hậu Xôviết", Okudjava mặc dù cũng phải bươn trải khá nhiều để vượt qua những khó khăn vật chất và nhằm tạo dựng một đời sống dễ chịu hơn nhưng vẫn luôn luôn giữ cốt cách người lính của mình.

Ông từng tâm sự: "Tôi không phải là kẻ hiếu danh, mà chỉ là người trọng danh. Kẻ hiếu danh thích được tiếng, còn người trọng danh muốn giữ tiếng. Tôi đã không bao giờ quan tâm đến những chuyện ầm ĩ xung quanh tên họ tôi. Nhưng với tư cách tác giả, tôi thích thú khi người ta đối xử tốt với tôi...".

Ông có quan niệm về người trí thức mà tôi rất thích: "Trí thức - đó trước hết là người luôn hướng tới tri thức. Đó là người chống lại bạo lực. Lắm khi một viện sĩ thì thất phu, còn một công nhân lại trí thức...". Ông cũng nghĩ rất hay về khái niệm tự do: "Tự do - đó là thoải mái trong khuôn khổ luật pháp... Tự do trước hết là phải tôn trọng nhân cách cá nhân. Tôi sống trong khuôn khổ ý thức của mình, nhưng tôi không cho phép bản thân phá cảnh bình an hay lối sống của hàng xóm chỉ vì mình - đó chính là tự do".

Ông cũng đã tỏ ra rất quyết liệt và sòng phẳng trong cách đánh giá con người nói chung. Khi nghe một phóng viên hỏi: "Ông có yêu con người không?", Okudjava đã thẳng thắn trả lời: "Tôi yêu những người tốt, chứ không yêu kẻ xấu. Không thể yêu tất cả mọi người, có những tên bất lương mà ghét bỏ, căm thù chúng không là tội lỗi. Tôi từng viết câu thơ như sau: Tôi không yêu toàn bộ nhân dân, mà chỉ riêng rẽ một số người đại diện...".

Ai đã từng qua chiến trường thì không bao giờ mềm yếu trước cái ác. Nhưng với cái thiện thì những người lính chân chính thường rất mềm lòng. Nhìn từ góc độ này, Okudjava cũng không là ngoại lệ. Và tôi cũng không là ngoại lệ. Phải vì thế chăng nên trong dịp kỷ niệm 60 năm Ngày kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ hai, tẩn mẩn ngồi đọc lại tập bản thảo cũ của mình, tôi cứ luôn vấn vương với bản dịch bài thơ Chú lính giấy của Okudjava mà tôi đã hoàn thành trong một cánh rừng Nga mùa thu ẩm ướt, khi lớp học viên quân sự chúng tôi đi dã ngoại cùng với các học viên Xôviết đầu những năm 80 của thế kỷ trước. Bài thơ như sau:

Đã từng có một chú lính
Cực kỳ gan dạ, đẹp trai.
Nhưng chú chỉ là đồ chơi,
Thứ đồ chơi bồi bằng giấy.

Chú muốn cải tạo cuộc đời
Để ai nấy đều hạnh phúc.
Nhưng chú lấy đâu ra sức,
Chú là lính giấy - đồ chơi.

Chú sẵn sàng vì mọi người
Qua lửa khói và chết chóc.
Nhưng các anh toàn trêu chọc,
Coi thường chú lính - đồ chơi.

Nhưng điều bí mật của mình,
Với chú, các anh không nói,
Vì chú chỉ là đồ chơi,
Thứ đồ chơi bồi bằng giấy!

Muốn vào lửa ư? - Xin mời!
Lập tức đùng đùng chú cháy,
Chẳng mang lại lợi ích gì
Vì chú 
           chỉ là lính giấy!!!

Có lẽ đến bây giờ vẫn không phải là lỗi thời cái ý thức trách nhiệm đầy nhân văn của những quân nhân: Hoàn thành vô điều kiện chức phận của mình, dù có hy sinh, dù có thể ai đó từ bên ngoài nhìn vào tưởng như đó là những hành động vô nghĩa. Không vô nghĩa đâu thiện tâm, không vô nghĩa đâu những việc làm thiện chí. Bởi lẽ, như cha ông xưa từng nói, cứ làm điều thiện đi, không thành công thì ta cũng thành nhân! "Chú lính giấy" của Okudjava đã là người sống và hy sinh theo đúng tư duy ấy

.
.
.