Từ góc nhìn của nhà sử học Nguyễn Hải Kế:

Người Việt Nam luôn chủ động đề phòng những tai họa từ biển vào

Thứ Hai, 30/06/2014, 08:16
Ngày 29/6, tại Trường ĐH KHXH&NV (ĐH Quốc gia Hà Nội), nhân tưởng nhớ một năm ngày mất của PGS, TSKH, Nhà giáo ưu tú Nguyễn Hải Kế, Khoa Lịch sử đã phối hợp cùng gia đình cho ra mắt cuốn sách với nhan đề “Nguyễn Hải Kế với lịch sử và văn hóa Việt Nam”.

Đây là cuốn sách dày 691 trang, được nhóm các thầy cô giáo của Khoa Lịch sử chọn lọc, biên tập trong số các công trình nghiên cứu khoa học tiêu biểu của nhà khoa học Nguyễn Hải Kế. Trong thời điểm Biển Đông đang dậy sóng như hiện nay, nhiều độc giả, nhà nghiên cứu đã quan tâm ngay đến cuốn sách ở một luận điểm được đề cập đến, đó là: “Người Việt Nam luôn chủ động đề phòng những tai họa từ biển vào”.

Cuốn sách “Nguyễn Hải Kế với lịch sử và văn hóa Việt Nam” được Ban biên tập chia thành ba phần với ba nội dung tương đối độc lập. Các bài viết, các công trình được chọn lọc trình bày trong cuốn sách đều là những công trình thể hiện rõ sự mạch lạc, logic, có hệ thống do quá trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc, công phu, miệt mài của PGS, TSKH Nguyễn Hải Kế mang lại. Chính vì vậy, khi tiếp xúc, bạn đọc sẽ có được cái nhìn đa dạng, toàn cảnh về các vấn đề, sự kiện không chỉ là văn hóa mà ngay cả những vấn đề tưởng chừng khô cứng như lịch sử. Trong số đó, tiêu biểu như tác phẩm “Biển Đông - Muôn ngả đường tiếp xúc, giao lưu văn hóa của Việt Nam”.

Trong phần này, tác giả cũng chia ra nhiều phần, nhiều hướng nghiên cứu, trình bày. Nhưng xin chỉ dẫn để minh chứng về luận điểm: “Nhiều cuộc tiếp xúc “bất đắc dĩ” với các nước bên ngoài của Việt Nam từ biển”.

Trong phần đầu, tác giả thống kê một loạt những cuộc xâm lăng từ các quốc gia bên ngoài. Năm 938 quân Nam Hán vượt biển, vào Bạch Đằng; Thế kỷ XI quân Tống do Hòa Mâu và Dương Tường Tiên chỉ huy đem thủy quân vào hải phận Đại Việt muốn vào cửa Bạch Đằng, bị quân Đại Việt chặn và cô lập; Năm 1282, nhà Nguyên điều 1.000 chiến thuyền do Toa Đô chỉ huy, theo biển tấn công vào cửa biển Cri Vinaya (Thị Nại – Quy Nhơn) rồi đầu năm 1284 lại tiếp thêm 200 chiến thuyền vào đó hỗ trợ. Từ đây, quân của Toa Đô lại vượt biển tiến ra Bắc; Trong cuộc xâm lược Đại Việt lần thứ 3 cánh quân thủy do Ô Mã Nhi cầm đầu vượt biển vào Vạn Ninh (Móng Cái – Quảng Ninh), tiếp đó là chiến thuyền chở 70 vạn thạch lương của Trương Văn Hổ cũng theo biển tiến vào...

Buổi giới thiệu cuốn sách được tổ chức tại Trường ĐH KHXH&NV.

Với những thách thức từ các thế lực ngoại bang tiến vào từ biển, trong phần sau, PGS, TSKH Nguyễn Hải Kế vẫn khẳng định rằng, “biển là nhân tố bộc lộ tính cách văn hóa Việt Nam, thế ứng xử của văn hóa Việt Nam” trong đó nhấn mạnh, “người Việt Nam luôn chủ động đề phòng tai họa từ biển vào trong nhiều hoàn cảnh”. Ví dụ như “các chính quyền nhà nước ở Việt Nam không phải ngẫu nhiên mà coi “Hải tần phòng thủ” thành chiến lược truyền từ đời này sang đời khác. Các vương triều Đại Việt đều ý thức về chủ quyền đã đánh dấu mà nhiều vụ trực tiếp đi tuần tra biển”.

Dẫn chứng cho điều này, tác giả viết, “không chỉ có riêng Lý Anh Tông quan tâm đặc biệt đến “Hải tần phòng thủ” sai Tô Hiến Thành làm Đô tướng, Đô An Di làm phó, đem 2 vạn quân đi tuần các nơi ven biển Tây Nam, để giữ yên miền biên giới”. “Vua thân đi tiễn đến cửa biển Thần Đầu ở Đại An (nay là cửa biển Thần Phù) mới trở về”. Sau đó, dẫu không khỏe, đích thân Lý Anh Tông năm 1171, “đi tuần các hải đảo, xem các hình thế núi sông, muốn biết dân tình đau khổ và đường đi xa gần thế nào”, năm 1172 “vua lại đi tuần các hải đảo ở địa giới các phiên bang Nam Bắc, vẽ bản đồ và ghi chép phong vật rồi về” (trích trong Đại Việt sử ký toàn thư).

Thêm vào đó, tác giả cũng dẫn chứng, “theo thống kê chưa đầy đủ, chỉ riêng nửa đầu thế kỷ XIX, từ thời Gia Long đến khi Tự Đức lên ngôi (1947), các vua và triều đình Nguyễn đã trực tiếp ra 84 chỉ dụ và cho ý kiến về việc liên quan đến biển, bảo vệ chủ quyền và khai thác biển”...

Cũng theo PGS, TSKH Nguyễn Hải Kế, “Trên biển, trong lịch sử, chính trong hoàn cảnh tiếp xúc “bất đắc dĩ” ấy, cái căn cốt tạo thành bản lĩnh rõ ràng của văn hóa Việt Nam, thành cội nguồn, thống nhất và trào dâng sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Không ngẫu nhiên mà hình thái của chủ nghĩa yêu nước được Bác Hồ chỉ ra bằng hình tượng “kết thành một làn sóng”. Khi mọi năng lượng văn hóa yêu nước, đa dạng và phong phú ấy biết hợp, kết thành “một làn sóng” mới tạo thành nguồn năng lượng “vô cùng mạnh mẽ, lướt qua mọi nguy hiểm khó khăn nhấn chìm tất cả lũ cướp nước” mà Việt Nam mới trường tồn trước những thử thách khốc liệt của các cuộc đấu tranh dựng nước, giữ nước”.

PGS, TSKH, Nhà giáo ưu tú Nguyễn Hải Kế (1954-2013) sinh ra tại Xã Tân Liên, huyện Vĩnh Bảo, TP Hải Phòng, nguyên là Chủ nhiệm Khoa Lịch sử Trường ĐH KHXH&NV. Ông tốt nghiệp Khoa Lịch sử Trường Đại học Tổng hợp năm 1974; là Tiến sĩ Sử học của Viện Hàn lâm khoa học Liên bang Nga năm 1996; được Nhà nước phong hàm Phó Giáo sư và Nhà giáo ưu tú lần lượt vào các năm 2002 và 2008.

Cảnh Vũ
.
.
.