NSƯT Trúc Linh: Đau đáu một tình yêu
Sau nhiều lần “năn nỉ” và được NSƯT Trọng Khiêm - chồng chị khích lệ, chị đã kể cho tôi nghe chuyện của mình trong một buổi chiều chớm Xuân Ất Dậu ở thành phố Cần Thơ. Có thể, những nỗi niềm đau đáu ấy đã tạo nên ánh mắt, trái tim nghệ thuật có sức cuốn hút hồn người của chị? Tôi không dám chắc, nhưng rõ ràng tôi đọc thấy trong ánh mắt chị, dù đã qua tuổi ngũ tuần, dù đã có cháu ngoại và một mái ấm gia đình đủ đầy, hạnh phúc, dù đã thành danh trên con đường nghệ thuật, nhưng vẫn đầy lãng mạn như tuổi mười tám...
Ngồi đối diện với chị, tôi đặc biệt có ấn tượng về ánh mắt. Trong đôi mắt ấy chứa đựng cả một bầu tâm trạng, vừa thơ ngây trong sáng lại vừa già dặn, từng trải, vừa vui sướng mãn nguyện lại vừa tiếc nuối khổ đau, vừa da diết lắng sâu lại vừa mạnh mẽ quyết liệt…
Chiến trường - hát và yêu
Trúc Linh tên thật là Nguyễn Thị Bế, sinh năm 1951 tại Châu Thành, Tiền Giang. Tuổi thơ của Trúc Linh là một quãng đời đầy cơ cực. Nhà nghèo, không được học hành, phải đi ở kiếm sống. Là một cô gái nhí nhảnh, yêu đời, hay hát, Bế thường tự mình cất lên tiếng hát để mua vui, để quên đi những cơn đói bụng, vơi đi nỗi vất vả mệt nhọc của kiếp người ở đợ. Bế hát mọi lúc, mọi nơi. Nghe người ta hát rồi bắt chước, câu được câu chăng.
Buổi trưa một ngày đầu năm 1963, trên đường đi chăn vịt thuê cho chủ ngoài đồng trở về, Bế lại hát. Và thời khắc ấy đã trở thành bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời chị. Lúc đó nhà văn, nghệ sĩ Trúc Chi đang trên đường đi tuyển người cho Đoàn văn công Cục Chính trị quân Giải phóng miền
Nhà văn Trúc Chi nhận Bế làm con nuôi và đặt tên cho cô là Trúc Linh. Hai bố con vượt màn đêm, cắt kênh rạch lội bộ để tránh tai mắt của bọn mật thám, chỉ điểm. Đi bộ hơn một tuần mới đến nơi đóng quân của đoàn ở Phước Long. Trúc Linh được biên chế vào tổ văn nghệ thiếu nhi gồm 3 người. Vào đoàn là tập hát ngay. Do không biết chữ nên Trúc Linh chỉ hát theo lời người xướng tập.
Sau một thời gian, đoàn tổ chức cho các diễn viên mới biểu diễn ra mắt Bộ Tư lệnh Miền. Nghe các diễn viên nhí hát xong, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, đồng chí Nguyễn Thị Định hết sức xúc động, lần lượt bế từng đứa lên hôn vào má, động viên, khen ngợi. Trúc Linh và các bạn vui sướng đến quên cả ăn, náo nức đón chờ giây phút được vào chiến trường hát cho các chú bộ đội nghe. Tính khốc liệt của chiến tranh và hình ảnh, tình cảm của các chú bộ đội nơi tuyến đầu khói lửa đã hun đúc cho cô bé những cảm xúc mãnh liệt trong tâm hồn và một bản lĩnh gan dạ, quyết tâm. Vừa làm văn công, Trúc Linh vừa được đoàn tạo điều kiện học văn hóa.
Những năm tháng lăn lộn đem tiếng hát ra chiến trường qua nhanh. Thấm thoắt cô bé Bế ngày nào đã trở thành một thiếu nữ, một diễn viên xinh đẹp tựa bông hoa ở chiến trường. Trúc Linh hát phục vụ bộ đội trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Khi không bò vào tận giao thông hào thì hát qua vô tuyến điện. Và rồi cô đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của một chiến sĩ tên là
- Nhành phong lan chỉ có một bông. Đây là bông hoa cô đơn nhưng Trúc Linh thì không cô đơn và anh cũng thế. Chiến tranh chưa biết đến bao giờ mới kết thúc, ước gì…
Xuân 1969, Trúc Linh cùng một số nghệ sĩ trẻ được điều về Bệnh viện K170 miền Đông hát phục vụ thương binh. Một cảm giác buồn và hụt hẫng dậy lên trong cô. Hát ở đâu thì cũng là nhiệm vụ, cũng là phục vụ cách mạng nhưng cô mê hát ở chiến trường hơn. Không chỉ vì cô đã quen với không khí ác liệt, nóng bỏng ở đó mà còn bởi hy vọng sẽ gặp lại
Ngày đầu tiên khi đi đến từng giường bệnh để hát cho thương binh thì
- Trúc Linh. Can đảm lên nào… Hãy hát cho anh nghe đi… Anh mong chờ giây phút gặp lại em… đã… lâu lắm rồi…
Gắng hết sức, Trúc Linh mới cất lên tiếng hát. Lời hát chảy theo nước mắt. Hát xong thì cô bị ngất đi do xúc động mạnh. Thế là thay vì phải chăm sóc thương binh, các bác sĩ lại phải lo cấp cứu cho cô. Những ngày sau đó, khi đã lấy lại sự thăng bằng trong tâm lý, Trúc Linh đã hát cho
Chắp nối những lời kể rời rạc của
Năm 1973, Trúc Linh trở lại Bệnh viện K170 thì được biết,
Mơ về xa xăm...
Sau năm 1975, Trúc Linh lặn lội đi tìm và nhắn tìm
Vào cái thời hưng thịnh của cải lương, tên tuổi Trúc Linh nổi lên như cánh diều no gió. Giọng ca và phong cách biểu diễn của chị đã làm mê đắm hàng triệu trái tim khán, thính giả; từ những ông cụ, bà cụ cho đến trẻ em. Mỗi lần đoàn đi diễn ở đâu là sân bãi chật kín người, rạp hát không còn chỗ trống. Vừa biểu diễn, Trúc Linh vừa sáng tác và làm đạo diễn. Những bản, vở cải lương của chị thường đi sâu vào khai thác chất liệu trữ tình của người lính và ký ức chiến tranh. Lời ca dội vào tâm thức người nghe sự bay bổng, lãng mạn, niềm đau đáu nhớ thương… nó như là sự giãi bày những ký ức tươi rói, những kỷ niệm thẳm sâu trong chính cuộc đời và tình yêu của chị vậy. Với những cống hiến xuất sắc cho cách mạng và nghệ thuật cải lương, chị trở thành nữ nghệ sĩ đầu tiên của ĐBSCL được Nhà nước phong tặng danh hiệu NSƯT.
Thế rồi nghệ thuật cải lương theo năm tháng cứ mờ dần, vắng dần, tắt dần trước cơn lốc của nhạc trẻ, nhạc rock, nhạc rap. Thời váy ngắn, áo cổ rộng, tóc nâu, môi trầm lên ngôi, người ta không còn mặn mà với món “rau đắng nấu canh” của áo bà ba, nón lá cùng những âm thanh vọng cổ. Các nhà hát cải lương nối đuôi nhau đóng cửa. Nhiều đoàn nghệ thuật cải lương danh tiếng một thời rã đám. Nghệ sĩ phải đi buôn, làm vườn kiếm sống.
Hoạt động trong một đoàn nghệ thuật Quân đội, Trúc Linh có thuận lợi hơn bội phần các nghệ sĩ cải lương bên ngoài, song cũng đã có lúc anh chị phải đi nhặt trái dừa khô, nuôi heo kiếm tiền cho con ăn học. Chị nghỉ hưu năm 2003 với quân hàm Thượng tá khi nghề nghiệp đã vào độ chín muồi. Nghỉ hưu nhưng không nghỉ việc. Chị vẫn hát, vẫn xuất hiện đều đều trên các sân khấu và trên các sóng phát thanh, truyền hình