Có một xứ Huế trong thơ

Thứ Tư, 07/06/2006, 08:03
Huế. Dù ở thời nào cũng có nhiều khoảng lặng trầm sâu khơi dậy những cảm hứng và ý tưởng sáng tạo cho các thi nhân.

Một không gian sông núi hài hoà, một quần thể kiến trúc độc đáo với những cung điện, lâu đài, thành quách, lăng tẩm, chùa chiền đã có hàng trăm năm tồn tại lưu giữ cho hôm nay và muôn sau dấu ấn huy hoàng của triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam, một vùng đất tao loạn hay thanh bình, tranh chấp hoặc hòa hợp, giao thoa và riêng biệt đều mang những dấu ấn đặc biệt khó quên. Đó là một vùng văn hóa đặc sắc không phải chỉ có những công trình kiến trúc, âm nhạc tiêu biểu đã được công nhận là di sản văn hoá của nhân loại mà còn có cả nền thi ca "rất Huế" nữa.

Huế. Dù ở thời nào cũng có nhiều khoảng lặng trầm sâu khơi dậy những cảm hứng và ý tưởng sáng tạo cho các thi nhân. Chỉ mới núi Ngự, sông Hương đã là một niềm thơ vô tận.

Dạ thưa xứ Huế bây giờ
Vẫn còn núi Ngự
bên bờ sông Hương

(Thơ Bùi Giáng)

Câu thơ nhẹ và êm như lời thưa của con gái Huế. Đơn sơ như chẳng có gì cả, thế mà sao đọc lên nghe xao xuyến thế. Thi sĩ họ Bùi nói cái điều rất hiển nhiên, cái điều đã tồn tại muôn thuở là "núi Ngự bên bờ sông Hương" mà ta thấy vẫn hay. Cái hay nhờ hai chữ  "Vẫn còn"; vẫn còn núi Ngự sông Hương là vẫn còn Huế mộng mơ gợi cảm. Hay diễn đạt một cách khác, nếu không có núi Ngự sông Hương thì liệu Huế có còn là Huế nữa hay không?

Sông Hương gần gụi và hiện rõ hơn trong thơ Hàn Mặc Tử :
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?
Có chở trăng về kịp tối nay

(Đây thôn Vỹ Dạ)

Huế trong những ngày Festival 2006

Lòng thi sĩ ngổn ngang thương nhớ giai nhân nên cảnh trong thơ cũng hiu hiu buồn. Trên sông Hương gió mây cũng chia rẽ đôi đường, cảnh vật như cứ bị rời ra, sự hội tụ hình như đang còn ở phía trước, đang còn là ước vọng của thi nhân. Cả con thuyền đậu bến sông trăng cũng không cầm chắc có chở được trăng về cho người đợi hay không. Buồn quá!

Tôi đọc thơ về sông Hương, xưa hay nay đều gặp giọng buồn. Hương giang, phận sông là phận gái, đẹp đẽ, mềm mại, dịu dàng mà vẫn đa đoan mỏng manh đầy bất trắc. Cứ như trời đất bắt phải thế, không làm sao thoát được kiếp hồng nhan bạc mệnh.

Áo sánh sóng thương ai
Tà triều Hương tím bãi
Lòng nguồn cơn mưa mãi
Tình động mái buồn
đò đẩy
sông suông

(Thơ Lê Đạt)

Trăng suông. Sông suông. Đều nhạt, lạnh, và buồn cả. Ờ hờ đời sông kiếp nữ. Đến như Tố Hữu, một nhà thơ cách mạng khi viết "Tiếng hát sông Hương" cũng không thoát khỏi giọng buồn:

Trên dòng Hương Giang
Em buông mái chèo
Trời trong veo
Nước trong veo
Em buông mái chèo
Trên dòng Hương Giang

Trăng lên, trăng đứng, trăng tàn
Đời em ôm chiếc thuyền nan
xuôi dòng

Do vậy chả trách chi Nguyễn Bính khi đến xứ sở núi Ngự sông Hương vào mùa mưa đã phải nao lòng kêu lên:

Giời mưa ở Huế sao buồn thế
Cứ kéo dài ra đến mấy ngày
Xa xôi ai nhớ mà thương nhớ?
Mà nhớ mà thương đến thế này!

(Giời mưa ở Huế)

Nét buồn của sông Hương, của Huế là nét buồn đẹp. Buồn của tri âm, của nhớ thương, của thế thái nhân tình, của những khát khao và hy vọng. Đó là nỗi lòng sâu thẳm của một vùng đất nhiều biến động thăng trầm, nhiều trầm tích văn hóa mà ta chưa đi đến tận cùng. Buồn. Nỗi buồn bao giờ cũng gần với thơ hơn cả. Nó như là biểu hiện của tâm hồn, của cách sống không nông cạn, nhạt nhẽo và hời hợt. Chính vì thế mà qua sông Hương nhà thơ Thu Bồn đã cảm nhận được một Huế "rất sâu":

Nhịp cầu cong và
con đường thẳng|
một đời anh tìm mãi Huế nơi đâu
con sông dùng dằng
con sông không chảy
sông chảy vào lòng
nên Huế rất sâu

(Tạm biệt)

Gắn với sông Hương phẳng lặng là một Huế cổ kính, trầm tư, nhiều u hoài. Phải chăng Huế hay trầm tư, u hoài vì dòng đời luôn chảy trong bóng những lũy thành của những triều vua đã quá vãng nhưng dấu vết của thời vàng son đó còn hiện hiển giữa bạch nhật thanh thiên. Bây giờ vẫn có cảm giác thế huống hồ là xưa như Vũ Đình Liên đã viết:

Gió không thổi, nước sông trôi
giá lạnh
Thuyền đi trong bóng tối
lũy thành xưa
Trên chòi cao, tự ngàn năm
sực tỉnh
Trong trăng khuya bỗng vẳng
tiếng loa mơ

(Lòng ta là những hàng thành quách cũ)

Nói như thế không có nghĩa là cuộc sống của con - người - Huế bị thụ động, bị khuất chìm trong cái bóng của dĩ vãng, trái lại Huế đẹp sinh động và quyến rũ hơn nhiều nhờ vào những cô gái Huế:

Đây phong vị Thần kinh
Cầu Tràng Tiền mấy nhịp?
Cô gái Huế đa tình
Vành nón nghiêng khép nép

(Thơ Đinh Hùng)

Sau này, khi ở xa quê, nhà thơ Thanh Tịnh vẫn mang Huế đi theo bằng những hình ảnh kỷ niệm thân thuộc không bao giờ quên được:

Mười một năm trời
mang Huế theo
Đèo cao nắng tắt bóng cheo leo
Giọng hò mái đẩy vờn mây núi
Man mác sông Hương
lướt đỉnh đèo

(Nhớ Huế quê tôi)

Cũng có nỗi nhớ nhung như vậy, nhà thơ Hải Bằng - một người con của Huế - đã viết:

Thiên Mụ nước ngời rung
bóng tháp
Tràng Tiền trắng nhịp trời
mai trong
Tịnh Tâm cá móng hồ sen động
Hình ảnh quê hương đã
thuộc lòng

(Bức tranh cuối tuần)

Chính cái buồn, cái phẳng lặng, cái sâu lắng đã tạo nên nét riêng cho con người và cảnh vật Huế. Thơ bắt nhịp vào những cái đó của Huế đã tạo ra được nhiều tác phẩm hay khi viết về vùng đất này. Người ta nói về Huế bằng giọng trầm, giọng trung, từ tốn, thong thả mà lắng đọng, diết da kiểu như Nguyễn Trọng Tạo viết trong "Con sông huyền thoại":

Con sông mình hạc xương mai
vàng son in bóng đền đài hoa khôi
đến đây tôi gửi bóng tôi
vớt lên thì vỡ, tan rồi lại nguyên

Huế là miền thơ. Bởi thế, những gì tôi viết trên đây mới chỉ là chấm phá. Còn nhiều, nhiều bài thơ rất hay cho Huế, của Huế vẫn chưa được nêu ra. Biết làm sao đây, ơi Huế?

Nguyễn Hữu Quý
.
.
.