Âm thầm bao dịch giả những bài hát Nga

Thứ Năm, 24/11/2005, 07:58

Thời chống Mỹ, những bài hát tiếng Nga có một sức mạnh to lớn cuốn hút cả một thế hệ thanh niên. Nó đã cùng những bài hát Việt theo người lính xuyên Trường Sơn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nhưng điều vô tình nhất của ngày ấy và có lẽ cũng của cả hôm nay là mặc dù rất thích hát những bài hát nhưng tên tác giả và tên dịch giả thì ít ai để ý tới.

Có lẽ, niềm sung sướng lớn nhất của thiếu niên các thành phố tạm bị chiếm như tôi từ khi hòa bình, là niềm sung sướng được hát nhiều bài hát mới của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và thế giới. Ngày ấy, không hiểu sao, các anh chị tôi vừa giải phóng Hải Phòng đã kiếm ngay về nhà được một tập bài hát dày cộp in rô-nê-ô. Đó là tập bài hát đầu tiên tôi nhìn thấy sau hòa bình được ấn hành từ Khu Học xá của ta ở Trung Quốc, do những người học ở đấy mang về. Và thế là cả nhà tôi quây quần bên cây ghita của anh tôi, suốt ngày tập hát.

Cho đến bây giờ, tôi vẫn không mảy may quên những bài hát ấy, đặc biệt là những bài hát Nga. Đã âm thầm, bao dịch giả các bài hát Nga lặng lẽ lan truyền những giai điệu quyến rũ đó đến với chúng tôi bằng những bản dịch ca từ tràn đầy tình cảm. Có tuổi rồi, mới ý thức đi tìm những đàn anh tri kỷ ấy. Nhưng nào phải đã tìm hết được. Bao dịch giả âm thầm đã không để lại một dấu tích nào về tên tuổi của mình nơi các bản dịch đã in sâu vào tâm thức của một thời. Tuy nhiên, giữa những dịch giả giấu tên ấy, vẫn còn những dịch giả có tên để chúng ta biết đến mà quí trọng và yêu mến.

Nhà thơ - nhạc sỹ Nguyễn Thụy Kha và những nghệ sỹ hát rong người Nga
Bài hát Nga đầu tiên mà tôi thuộc rồi mang đi hát ở đội thiếu niên là bài “Có một thiếu niên thành Lêningrát” trong tập bài hát của Khu Học xá mà tôi đoán người chép nhạc, có khi là cả dịch giả là nhạc sĩ Phạm Tuyên. Chắc thông qua tiếng Trung Quốc, Phạm Tuyên đã dịch rất nhiều bài hát Nga trong tập bài hát này. Có thể vì dịch nhiều quá nên dịch giả Phạm Tuyên ngại ghi tên mình vào mà cứ chép ra như vậy thôi.

Ở tập bài hát Khu Học xá, bên cạnh những bài hát không ghi tên dịch giả mà tôi đoán có lẽ là nhạc sĩ Phạm Tuyên cùng những bài hát có ghi tên ông, còn có những dịch giả khác như Hoàng Đạm với “Được mùa”, Đức Vinh với “Mùa xuân đã đến trên chiến trường của chúng ta”, Lê Hữu với “Trời chiều”, Ngô Quang Dư và Tôn Sơn với “Ca sinh viên”, Lý Trọng Hưng với “Đời nở hoa”, Quang Huy với “Hát đối”...

Nhiều năm tháng sau, thế hệ chống Mỹ chúng tôi vẫn tiếp tục hát những bài hát Nga bằng những bản dịch truyền khẩu không rõ dịch giả là ai. Chúng tôi còn hát và thuộc những bản dịch khác nhau, mà bản nào cũng thấy hay cả. Không biết chị Đặng Thùy Trâm thích bài hát “Suliko” thì chị và chị Thà đã song ca bản dịch nào? Bản dịch của Khu Học xá hay bản dịch khuyết danh mà tôi thuộc. Song đối chiếu với nguyên bản tiếng Nga thì tôi thấy bản dịch tôi thuộc vừa sát nghĩa vừa hay hơn:

Bao nhiêu ngày tôi đi kiếm tìm quanh
Nơi bao người tôi yêu nấm mộ xanh
Lang thang tìm không thấy tôi đi cho đến bao giờ
Chín suối em hay chăng Suliko?

Có lẽ lúc đó, các dịch giả ở Khu Học xá đa số là dịch các bài hát Nga qua bản dịch tiếng Trung Quốc nên nghĩa chính của lời Nga đã được dịch một lần rồi, bởi vậy dịch thêm qua tiếng Việt tuy không phải là “tam sao thất bản” nhưng nghĩa đã xa với bản chính nhiều rồi. Ví dụ bài hát “Đỉnh núi Lênin” rất quen thuộc thì bản dịch ở Khu Học xá là “Đồi Lênin”. Cả hai bản dịch đều không ghi tên dịch giả, nhưng có vẻ bản dịch “Đồi Lênin” xa với bản chính hơn bản dịch “Đỉnh núi Lênin”. Song ngược lại, cũng là bài “Mặt trời khuất sau núi” thì tuy bản dịch của Trung Kiên sát nghĩa hơn, nhưng lại ít chất thơ hơn và ít được phổ biến hơn bản dịch lấy đầu đề là “Trời chiều” của Lê Hữu:

Đỉnh non xanh thắm
Đã che ánh chiều
Màn sương trắng âm thầm mờ che suối con bên chân đèo
Một người chiến sĩ
Áo đã phai màu
Còn nhịp chân bước nhanh khát khao ngọn lửa ấm.

Tình trạng này, tình trạng những bản dịch hay chỉ được lan truyền trong người mến mộ mà lại không được ấn hành và ngược lại những bản dịch ít người thuộc thì lại được ấn hành vẫn còn đang hiện diện ở tuyển tập 100 bài hát Nga yêu thích nhan đề “Triệu triệu bông hồng” do Nhà xuất bản Thanh Niên ấn hành với sự biên soạn của nhạc sĩ - tiến sĩ Vũ Tự Lân.

Bài “Hắc Hải của tôi” với bản dịch của nhạc sĩ Hồ Bắc (có lẽ dịch qua tiếng Pháp) rõ ràng là chưa phổ biến bằng bản dịch khuyết danh mà nhiều thủy thủ và lính thủy thời đó đã thuộc:

Biển bờ còn chói sáng trong đêm khuya
Cuồn cuộn ngàn sóng nước trôi về
Gửi người yêu tôi nơi xa xôi
Biển đầy tình mến thương muôn đời
Và giờ này mẹ hiền đang mong...

Bài “Chiều Mátxcơva” với lời dịch của Vũ Tự Lân có vẻ sát nghĩa hơn nhưng cũng không thể xóa nổi ám ảnh của “Chiều ngoại ô Mátxcơva” xưa kia đã hằn sâu vào tâm trí bao người:

Chiều thanh vắng là đây âm thầm gió rì rào
Rừng cây chim muông lắng hót canh thâu
Hỡi em thấu chăng tình anh lòng bao trìu mến
Mátxcơva trong chiều vắng thanh bình.

Thời đó nghèo về vật chất nhưng sao giàu tiếng hát đến thế. Giao thừa thì hát “Nâng cốc” vừa tiếng Nga: “Etxli nà pờ ra fơ nhịch kè”... vừa tiếng Việt: “Được cùng đồng chí tưng bừng”. Lúc hùng tráng lên đường thì hát “Bài ca tuổi trẻ sôi nổi”. “Dà-bô-ta-u-nát xờ-tờ-kái-a” chen lẫn với “Lòng ta hằng mong muốn và ước mơ...”. Khi sung sướng và hồn nhiên thì “Cuộc sống ơi, ta mến yêu người” vừa xì xồ: “I à lìu-bơ-lu-che-bìa-Dứn” vừa trầm ấm: “Cả tình yêu trao cuộc sống”. --PageBreak--

Bài hát Nga dường như đã gắn liền không thể tách rời trong không gian ca hát Việt thời đó qua các bản dịch. Ngày tôi tròn mười tám tuổi, không hiểu sao vừa hát giai điệu “Này bạn ơi! Khi mười tám tuổi xuân, biết bao niềm mơ ước, vừa ứa nước mắt vì luyến tiếc những năm tháng ngây thơ đã mãi đi qua không bao giờ trở lại”. Nếu thời đó, có người dịch lời bài hát Nga bằng tiếng Trung Quốc hay tiếng Pháp thì cũng lại có người dịch những bài hát quốc tế thông qua tiếng Nga. Bài “Con vẹt” của Ý mà ca sĩ nhí Rôbéttinô đã ca vang phố phường miền Bắc qua các máy quay đĩa than nếu không nhờ có lời bằng tiếng Nga (Pa-pu-gai) thì làm sao chúng tôi có lời Việt để hát thông qua bản dịch: “Vâng! Tôi yêu - ngày ngày đang say sưa thiết tha yêu - Cô nàng xinh xinh nụ cười tươi và đôi mắt long lanh…”.

Những giai điệu Nga, những giai điệu thế giới thông qua các bản dịch khuyết danh đã tràn vào tuổi trẻ chúng tôi, gây hưng phấn cùng những bài hát chói chang chất sống của nhạc sĩ trong nước. Số bài hát Nga mà riêng tôi thuộc bản dịch tiếng Việt có thể lên tới số hàng trăm. Hát mê mải trên giảng đường sơ tán. Hát mê mải ngày vào Quảng Trị quyết chiến! Ở mùa hè đổ lửa này, quân ta đã “xài” pháo phản lực Ca-chiu-sa. Bởi thế, lính vừa đánh vừa thích hát và nghe bài “Ca-chiu-sa” - bài hát đẻ ra cái tên của vũ khí.

So với bản dịch ở Khu Học xá với cái tên “Gửi người chiến sĩ biên thùy”, bản dịch của anh Phạm Tuyên với cái tên “Ca-chiu-sa” trong tập “Triệu triệu bông hồng” thì tuy bản dịch này có sát hơn và giai điệu được ghi đúng nguyên bản chứ không “mô-đi-phê” như bản “Gửi người chiến sĩ biên thùy”, nhưng khổ nỗi, lính ta đã quá thuộc cái bản “mô-đi-phê” này nên nó vẫn có giá trị xã hội lớn hơn bản dịch nghiêm cẩn kia. Hát mãi, các đồng đội hỏi rằng cái lời chính của nó có như bản dịch không? Tôi trả lời rằng lời chính của nó cô đọng và buồn hơn, thơ và ẩn dụ hơn rồi dịch ý cho mọi người nghe, lính ta vỗ đùi đen đét: “Người Nga ghê gớm thật. Phải thế mới trị nổi bọn Đức chứ”. Để nói rằng cái cô Ca-chiu-sa nào đi bên bờ sông ngóng người yêu thì thấy bờ sông cao và dốc thẳm, tức là biết sự trở về từ mặt trận của người yêu thật khó khăn mà bằng hình tượng như thế thì... “trên cả tuyệt vời”.

Sao cái cảnh lính ta đánh vào Thượng Đức mùa mưa 1974 lại giống y như cái lời bản dịch “ánh lửa” mà tôi thường hát cùng đồng đội: “Giờ này đây nơi tiền tuyến quang vinh - Còn chờ đón một chiến sĩ mình - Tình bạn mới bao bạn mến thân yêu - Còn chiến đấu bên nhau nhiều/ Quyết chiến đấu đến giờ phút cuối cùng - Vì Tổ quốc ta kiêu hùng/ Vì ánh lửa muôn đời sáng trong ta/ Vì người yêu đang chờ ta”.

Thống nhất đất nước, lính giải ngũ về nhà. Ngày chống Pháp đã hát “Giờ này anh về đâu hỡi người bạn cũ cùng binh đoàn/ Đã chiến đấu cùng nhau trên dặm đường xa/ Nếu giờ này bạn hiền còn thiếu một gia đình/ Xin bạn đừng ngại ngần về chốn quê tôi, miền đồng quê phì nhiêu/ Nông trường lời hát hòa êm đềm. Có nhiều cô đẹp hơn “Tiếng ca ban chiều” thì chống Mỹ xong cũng lại “Giờ này anh về đâu?”.

Nhưng cũng từ thanh bình, những bài hát Nga đương đại ít vào Việt Nam hơn trừ những “Điệu nhảy trên trống”, “Địa chỉ chúng tôi - liên bang Xôviết”, “Triệu triệu bông hồng”… Những dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga, vẫn thấy hát loanh quanh những bài hát Nga từ nửa thế kỷ trước. Còn người Nga sau một thời dài lan truyền những bài hát của mình đi bốn phương, thì giờ đây nhiều người đã lang thang hát rong những bài hát của mình khắp châu Âu. Năm ngoái trong dịp đi châu Âu, tôi đã từng vui hát cùng họ và rồi để biếu họ vài euro. Một cử chỉ nhỏ để hàm ơn những bài hát Nga và những dịch giả âm thầm của nó ở Việt Nam đã dạy tôi biết hàm ơn như thế

Nguyễn Thụy Kha
.
.
.