Việt Nam đề nghị LHQ lưu hành hai văn bản phản đối Trung Quốc

Thứ Bảy, 05/07/2014, 12:10
Ngày 3/7, Đại sứ Lê Hoài Trung, Trưởng Phái đoàn Việt Nam tại Liên hợp quốc (LHQ) tiếp tục gửi thư lên Tổng thư ký LHQ Ban Ki-moon, đề nghị lưu hành như là những tài liệu chính thức của Đại hội đồng LHQ khóa 68 hai văn bản nêu lập trường của Việt Nam về việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam; đồng thời khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, bác bỏ các yêu sách không có cơ sở pháp lý và lịch sử của Trung Quốc về chủ quyền đối với quần đảo này.

Vi phạm luật pháp và khước từ đối thoại

Đại sứ Lê Hoài Trung cho biết, trong văn bản đầu tiên, Việt Nam đã nêu rõ quan điểm về vấn đề Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Việt Nam bác bỏ toàn bộ, cả trên thực tế cũng như pháp lý, các luận cứ của Trung Quốc nêu trong các văn bản kèm theo các thư ngày 22/5 và ngày 9/6 của Đại biện Phái đoàn đại diện thường trực của Trung Quốc gửi Tổng thư ký LHQ. Văn bản nêu rõ, là một quốc gia ven biển, Việt Nam được hưởng các quyền theo quy định của Công ước quốc tế của LHQ về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS).

Gần đây, tình hình Biển Đông đã trở nên căng thẳng do việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Chưa hết, để bảo vệ hoạt động bất hợp pháp của giàn khoan Hải Dương 981, Trung Quốc đã huy động hơn 100 tàu hộ tống, trong đó có tàu quân sự vào vùng biển của Việt Nam. Các tàu hải cảnh của Trung Quốc chủ động liên tục đâm húc, bắn vòi rồng vào các tàu thực thi pháp luật của Việt Nam. Nhiều bằng chứng dưới dạng băng hình và hình ảnh do các phóng viên quốc tế quay chụp tại hiện trường cho thấy rõ các hành động bạo lực, hung hăng này của Trung Quốc. Đáng lưu ý, ngày 26/5, tàu Trung Quốc đã đâm chìm một tàu cá của Việt Nam mà không xem xét đến sự an toàn và tính mạng của ngư dân Việt Nam. Các hành động của Trung Quốc không chỉ vi phạm quy định cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong luật pháp quốc tế mà còn là hành động vô nhân đạo đối với những người đi biển.

Những tấm ảnh do phóng viên Jeff Head của tờ Freerepublic (Mỹ) chụp và đăng tải cho thấy rõ vụ việc xảy ra hôm 26/5 khi tàu Trung Quốc cố tình đâm chìm tàu cá Việt Nam và ngăn cản các tàu khác của Việt Nam cứu hộ đối với con tàu bị chìm này.

Nhấn mạnh các nỗ lực và thiện chí của Việt Nam để giải quyết tình hình căng thẳng thông qua biện pháp hòa bình như việc chủ động gửi công hàm, giao thiệp trên 30 lần ở nhiều cấp khác nhau, văn bản nhấn mạnh, Trung Quốc đã xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, lại còn khước từ mọi nỗ lực đối thoại của Việt Nam. Trước sau như một, Việt Nam kiên quyết phản đối mọi hành động nói trên của Trung Quốc. Việt Nam cũng yêu cầu Trung Quốc giải quyết tất cả các tranh chấp thông qua các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS, tránh để căng thẳng kéo dài và tránh dẫn đến xung đột giữa hai nước.

Xâm lược không sinh ra chủ quyền

Trong văn bản thứ hai gửi lên Đại hội đồng LHQ khóa 68, Việt Nam một lần nữa đã khẳng định rõ chủ quyền không thay đổi và không thể thay đổi của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Những yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa được nêu trong văn bản của Đại biện Phái đoàn đại diện thường trực Trung Quốc gửi Tổng thư ký LHQ ngày 22/5 và 9/6 đều vô căn cứ và không có cơ sở pháp lý, lịch sử. Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết, các tư liệu lịch sử không thống nhất với tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa. Những tư liệu mà Trung Quốc đã dẫn chiếu như là bằng chứng lịch sử nhằm chứng minh cho cái gọi là “chủ quyền” đối với quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam được đưa ra trong các cuộc giao thiệp gần đây đều không có nguồn gốc rõ ràng, không chính xác và được Trung Quốc diễn giải một cách tùy tiện. Các tài liệu mà Trung Quốc dẫn chiếu  không chứng tỏ rằng Trung Quốc đã thiết lập chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa khi quần đảo còn là lãnh thổ vô chủ. Ngược lại, các ghi chép lịch sử cho thấy Trung Quốc hiểu rằng chủ quyền của họ chưa bao giờ có quần đảo Hoàng Sa.

Còn Việt Nam đã cung cấp công khai các tài liệu lịch sử xác thực cho thấy, Việt Nam đã thiết lập chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa từ khi quần đảo là lãnh thổ vô chủ. Ít nhất từ thế kỷ 17, các triều đại nhà Nguyễn đã tổ chức các hoạt động khai thác sản vật trên các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa, tổ chức đo đạc hải trình và bảo đảm an toàn cho các tàu thuyền của quốc gia khác qua lại tại khu vực quần đảo Hoàng Sa. Các hoạt động này đều đã được ghi nhận trong các văn bản chính thức do các triều đình Việt Nam ban hành là các Châu bản hiện đang được lưu giữ tại Việt Nam.

Các bằng chứng lịch sử cũng cho thấy, quần đảo Hoàng Sa không được giao cho Trung Quốc tại các Hội nghị quốc tế trước và sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới lần thứ 2, như: Hội nghị Cairo (11/1943), Hội nghị Potsdam (7/1945), Hội nghị hòa bình San Francisco (8/1951), Hội nghị Geneva (1954). Tài liệu cũng nêu rõ Trung Quốc đã sử dụng vũ lực xâm chiếm trái phép Hoàng Sa. Năm 1956, lợi dụng lúc Pháp rút khỏi Việt Nam, Trung Quốc đã xâm chiếm nhóm đảo phía Đông của Hoàng Sa. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã phản đối mạnh mẽ sự chiếm đóng này. Năm 1974, lợi dụng tình hình chiến tranh ở Việt Nam, Trung Quốc đã dùng vũ lực chiếm quyền kiểm soát Hoàng Sa từ chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Việc Trung Quốc chiếm đóng bằng vũ lực quần đảo Hoàng Sa không thể tạo nên chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa.

Từ góc độ luật pháp quốc tế, việc chiếm đóng bằng vũ lực lãnh thổ của một quốc gia có chủ quyền là hành vi bất hợp pháp và không thể là cơ sở cho đòi hỏi chủ quyền. Vì vậy, chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa vẫn được duy trì và không bị thay thế bởi sự chiếm đóng bằng vũ lực của Trung Quốc. Bị vong lục ngày 12/5/1988 của Trung Quốc - một văn bản chính thức của Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng đã khẳng định một nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế là “xâm lược không thể sinh ra chủ quyền” đối với một vùng lãnh thổ. Không có quốc gia nào trên thế giới công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa.

Đặc biệt, về việc Trung Quốc cố tình xuyên tạc lịch sử và diễn giải sai lịch sử khi viện dẫn Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 và một số tài liệu, ấn phẩm được xuất bản ở Việt Nam trước năm 1975 để củng cố yêu sách của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa, văn bản khẳng định, Việt Nam chưa bao giờ công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa. Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng hoàn toàn không nhắc gì đến chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa hay Trường Sa. Việt Nam yêu cầu Trung Quốc tôn trọng sự thật lịch sử đó và nghiêm túc đàm phán với Việt Nam về vấn đề quần đảo Hoàng Sa

Huyền Chi
.
.
.