Nên quy định rõ hơn về nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước

Thứ Hai, 04/03/2013, 08:12
Qua nghiên cứu cho thấy, chế định Chủ tịch nước là một trong những nội dung quan trọng của Hiến pháp Việt Nam, quy định về người đứng đầu Nhà nước và đại diện cho Nhà nước với ý nghĩa là một quốc gia về đối nội, đối ngoại.

So với các Hiến pháp năm 1946, năm 1959 và năm 1980, Hiến pháp 1992 quy định cụ thể thêm một số quyền, như: Chủ tịch nước có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Phó viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định phong hàm cấp sĩ quan trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp đại sứ; quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, cho thôi quốc tịch Việt Nam hoặc tước quốc tịch Việt Nam.

Qua nghiên cứu cho thấy, chế định Chủ tịch nước là một trong những nội dung quan trọng của Hiến pháp Việt Nam, quy định về người đứng đầu Nhà nước và đại diện cho Nhà nước với ý nghĩa là một quốc gia về đối nội, đối ngoại.

Quy định về Chủ tịch nước Việt Nam trong các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và 1992 (được sửa đổi bổ sung năm 2001) có những nội dung khác nhau, trên cơ sở phù hợp với tình hình, nhiệm vụ của đất nước trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định và có sự kế thừa những quy định phù hợp của Hiến pháp sau đối với Hiến pháp trước.                        

Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 phần quy định về Chủ tịch nước đã được thực hiện trên cơ sở quán triệt quan điểm của Đảng về kế thừa những quy định của Hiến pháp năm 1992 và các bản Hiến pháp trước đây còn phù hợp.

Theo đó, chế định Chủ tịch nước được đề cập tại Chương VI, giữ nguyên 08 điều như Hiến pháp năm 1992, trong đó 5 điều giữ nguyên và 03 điều sửa đổi, bổ sung. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch nước được quy định trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được bố cục lại theo hướng các nhóm nội dung liên quan đến lập pháp, hành pháp, tư pháp, an ninh, quốc phòng và đối nội, đối ngoại. Ngoài những nhiệm vụ, quyền hạn được kế thừa từ các Hiến pháp trước và quy định lại trong dự thảo Hiến pháp năm 1992, có một số điểm mới sau:

Bổ sung quyền hạn của Chủ tịch nước đối với công tác lập pháp: Ngoài việc quy định Chủ tịch nước công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh như Hiến pháp 1992, lần sửa đổi này đưa thêm nội dung đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày pháp lệnh đó được thông qua, nếu pháp lệnh đó vẫn được Ủy ban Thường vụ Quốc hội tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất.

Bổ sung quyền hạn của Chủ tịch nước trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đối với một số chức danh của cơ quan hành pháp và tư pháp: Ngoài việc quy định đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm đối với Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, còn bổ sung thẩm quyền căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội (không cần Ủy ban Thường vụ Quốc hội) để bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đối với các chức danh: Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, Phó Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao, thẩm phán các tòa án khác, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao. Chuyển quyền quyết định đặc xá từ khoản 12 Điều 103 Hiến pháp năm 1992 lên khoản 3 Điều 94 (Hiến pháp sửa đổi), đặt trong nhóm quyền để thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội nhằm bảo đảm tính logic, hợp lý.

Quy định cụ thể hơn thẩm quyền đối với lực lượng vũ trang: Quy định rõ thẩm quyền “quyết định phong hàm, cấp sĩ quan cấp tướng, đô đốc, phó đô đốc, chuẩn đô đốc hải quân trong các lực lượng vũ trang nhân dân; bổ nhiệm Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam”.

Việc quy định cụ thể này vừa phân định rõ ràng, cụ thể thẩm quyền phong hàm, cấp sĩ quan của Chủ tịch nước với các chủ thể có thẩm quyền khác, tạo cơ sở thống nhất cho việc cụ thể hóa trong các đạo luật và áp dụng trên thực tế; đồng thời phù hợp với vị trí, vai trò thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh của Chủ tịch nước.

Quy định cụ thể hơn quyền quyết định phê chuẩn hoặc tham gia điều ước quốc tế: Đối với chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế về chiến tranh và hòa bình, các vấn đề liên quan đến chủ quyền quốc gia, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tư cách thành viên của Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực, thương mại quốc tế thì Chủ tịch nước phải trình Quốc hội phê chuẩn.

Dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 đã tăng cường nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước đối với công tác lập pháp, bộ máy hành pháp, tư pháp và đảm bảo sự phân công, phân cấp giữa Quốc hội, Chủ tịch nước và Chính phủ. Tuy nhiên, một vài nội dung quy định còn chung chung, một số quyền hạn còn mang tính danh nghĩa, nhất là nhiệm vụ và quyền hạn trong thống lĩnh lực lượng vũ trang, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh. Để phù hợp với tình hình, nhiệm vụ của đất nước trong giai đoạn hiện nay, đề nghị nghiên cứu, bổ sung một số nội dung sau:

Một là, nghiên cứu cụ thể quyền hạn thống lĩnh lực lượng vũ trang thông qua những cơ chế, hoạt động cụ thể, như: Giữ quyền Tổng chỉ huy lực lượng vũ trang; quyết định phong hàm, cấp và giáng cấp hàm sĩ quan cấp tướng.

Hai là, cần cụ thể hơn quyền hạn của Hội đồng Quốc phòng và An ninh.

Hiến pháp năm 1992 quy định, chỉ trong trường hợp chiến tranh thì Hội đồng quốc phòng và an ninh mới được Quốc hội giao cho những nhiệm vụ, quyền hạn đặc biệt. Quy định này chưa bao hàm hết các trường hợp cần quản lý, chỉ đạo trong bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Đề nghị nghiên cứu, quy định rõ quyền hạn của Hội đồng và Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh theo hướng được quyết định các biện pháp quân sự và điều động lực lượng vũ trang nhân dân, quyết định các biện pháp nhằm đảm bảo an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội (cả khi có chiến tranh và không có chiến tranh).

Ba là, ngoài quyền đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh, đề nghị bổ sung quyền đề nghị Quốc hội xem xét lại dự thảo luật mà Quốc hội đã thông qua, nếu Quốc hội vẫn tán thành thì Chủ tịch nước Công bố. Quy định như vậy để tăng trách nhiệm của Chủ tịch nước đối với việc làm luật và đảm bảo sự giám sát lẫn nhau giữa Quốc hội và Chủ tịch nước

T.B.T.
.
.
.