Đổi mới hoạt động xuất, nhập cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam

Thứ Bảy, 16/11/2013, 08:04
Tạo điều kiện cho người nước ngoài nhập cảnh vào nước ta học tập công tác, du lịch, lao động… nhưng cũng có những quy định cụ thể, rõ ràng để không bị lợi dụng. Các phương tiện giao thông thủy phải được kiểm soát, đăng ký đăng kiểm chặt chẽ, người điều khiển phương tiện phải “làm chặt” từ khâu đào tạo… Đó là những vấn đề các đại biểu nêu trong buổi thảo luận tổ chiều 15/11 về hai dự luật Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam và dự luật Giao thông đường thủy nội địa.

“Xuất nhập cảnh và cư trú của người nước ngoài tại nước ta là vấn đề đặc biệt quan trọng”, đại biểu Trần Tiến Dũng (Hà Tĩnh) đánh giá tầm quan trọng của dự luật Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam. Đại biểu cho rằng, từ trước tới nay, ta mới điều chỉnh lĩnh vực này bằng Thông tư liên bộ, chưa có luật. Về một mức độ nào đó, vấn đề cư trú của người nước ngoài ở Việt Nam vẫn còn những vấn đề rất đáng quan tâm. Đa số các đại biểu đồng tình cao với việc ban hành luật và sớm đi vào cuộc sống để quản lý, đảm bảo ổn định tốt hơn nữa về ANTT đất nước.

Có đại biểu cho rằng, có những vấn đề nêu trong dự luật cần làm rõ thêm, làm sao vừa đáp ứng thuận lợi vừa công khai minh bạch xuất nhập cảnh, vì vấn đề này rất quan trọng. Đại biểu lưu ý, có người nhập cảnh để tham quan, du lịch, giao lưu, học tập, nghiên cứu khoa học...  Làm sao phải chặt chẽ, phải công khai minh bạch, nhằm đảm bảo ANQG và TTATXH và đảm bảo bình đẳng quốc tế. Có người quá cảnh du lịch đi qua cửa khẩu quốc tế đường hàng không, có thể họ dừng lại ở sân bay 20-30 tiếng đồng hồ, người ta muốn tìm hiểu vùng xung quanh, thì  cũng cần nghiên cứu để luật chặt chẽ hơn và trường hợp nào là đặc biệt cũng cần nêu rõ trong luật. Kể cả công dân là Việt kiều.

Đại biểu Phạm Trường Dân, Phó Giám đốc Công an tỉnh Quảng Nam cho rằng, nguyên tắc “giữ vững chủ quyền, an ninh quốc gia” (điều 3) là chưa đủ, cần thêm “độc lập chủ quyền” sẽ đầy đủ hơn. Đại biểu đề nghị xem lại khoản 9, điều 14 trong đó có quy định cửa khẩu quốc tế và cửa khẩu quốc gia, cửa khẩu đường thủy, đường  bộ, đường sắt và hàng không. Và, phải bổ sung thêm đối tượng chưa cho nhập cảnh là: đối tượng có lệnh truy nã quốc tế. Nhiều đại biểu cho rằng, dự luật Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam đã khẳng định tính pháp lý cao hơn. Người nước ngoài vào hoạt động xã hội, làm việc… là yêu cầu giai đoạn hiện nay của đất nước. Luật đã điều chỉnh khá rõ nét nhiều phương  diện.

Có đại biểu nêu, khu kinh tế Vũng Áng có 3.000 lao động người nước ngoài, nhưng điều kiện cấp giấy phép cũng không đơn giản, nếu chỉ là người có tay nghề đơn giản, lao động phổ thông thì ta cũng không cần tới người nước ngoài làm gì. Khi có nhu cầu lao động thực sự thì mới phải xem xét cấp thị thực. Để cấp giấy phép lao động và học tập, phải quy định rõ nét để thực hiện cho tốt và  phải hướng dẫn chặt chẽ, cụ thể.

Có đại biểu đề nghị, làm sao phải chuyển đổi, quản lý điện tử từ cơ quan xuất nhập cảnh, từng bước hiện đại hóa trong quản lý. Người nước ngoài vào lao động nhưng họ ở cả trong khu dân cư. Trách nhiệm quản lý của chính quyền các cấp là rất quan trọng.  Điều 43, trách nhiệm của các cấp chính quyền còn đơn giản, chưa thể đồng bộ để quản lý người nước ngoài nhập cảnh, cư trú (lưu trú, tạm trú, ở hẳn). Cần phải quy định hẳn vào luật, việc cư trú là trách nhiệm của chính quyền các cấp, phải ghi rõ cấp tỉnh, huyện, xã. Phải bổ sung thêm cho rõ trách nhiệm, chỉ tuyên truyền là chưa đủ. Ngoài thủ tục xuất nhập cảnh  mà quản lý cư trú cũng là một đầu mối quan trọng.

“Có những người không có giấy phép lao động nhập cảnh vào Việt Nam rồi đi lao động, có dấu hiệu lừa đảo, kinh doanh trái pháp luật, cần nghiên cứu thêm”, đại biểu Nguyễn Thị Khá (Trà Vinh) nói về thị thực cho người nước ngoài vào nước ta”. Bà Khá đề nghị, học sinh, sinh viên, người thân cán bộ ngoại giao… thị thực có giá trị. Ngoài ra, cần tạo điều kiện cho bà con có biên giới chung với nước ta, tạo điều kiện cho bà con qua lại, thăm thân nhưng phải có nguyên tắc. Trong quá trình công nghệ thông tin phát triển, quản lý CNTT tốt hơn thông suốt, gắn kết TW - địa phương. Cần quy định có tính nguyên tắc nhưng phải có lộ trình, quản lý bằng điện tử, và có giai đoạn chuyển tiếp. Về điều kiện cấp thị thực, với trẻ em dưới 14 tuổi mà đi cùng người lớn (cha mẹ) thì không cần làm thủ tục riêng. Về trách nhiệm quản lý nhà nước, làm sao có sự phối hợp chặt chẽ hơn giữa cơ quan Trung ương và địa phương, giữa các bộ, ngành. Các đại biểu đề nghị, phải làm rõ trách nhiệm chính quyền địa phương khi có người nước ngoài cư trú bất hợp pháp, đến để kinh doanh tràn lan, nâng giá, hạ giá tùy tiện làm ảnh hưởng đến thương mại trong nước và quyền lợi người sản xuất.

Du khách quốc tế đến Việt Nam ngày càng nhiều, một phần nhờ sự thông thoáng, đổi mới hoạt động xuất nhập cảnh.

“Mới đây phương tiện thủy như du thuyền, đò ngang… gây tai nạn nhiều, cần phải làm rõ trách nhiệm”, một số đại biểu đề nghị. Về quy định tuổi lái phương tiện, quy định trên 60 tuổi là không được lái phương tiện, vấn đề này cũng cần phải xem xét. Vì ở nông thôn có nhiều người 60 vẫn làm, phải xem đó là loại phương tiện nào, cấp nào… “Về cứu hộ cứu nạn giao thông thủy, nên quy định chặt chẽ hơn. Đó là, các phương tiện đang đi trên tàu thuyền, ở gần phương tiện xảy ra tai nạn là phải có trách nhiệm cứu hộ. Vì phương tiện thủy nếu có tai nạn xảy ra là thiệt hại rất nhiều, giữa sông, biển làm sao mà khắc phục ngay được”, đại biểu Trần Xuân Vinh, ái ngại. Vì vậy, phải quy định điều kiện phao cứu sinh an toàn để tránh thiệt hại mất mát và những tang tóc đau thương. Một mặt đề cao trách nhiệm các bộ liên quan (Công an - Quốc phòng - Giao thông) và trách nhiệm quản lý nhà nước từng bộ, từng bước hạn chế gây thiệt hại về người và tài sản.

Cùng đồng tình với những phân tích trên, đại biểu Võ Kim Cự lo lắng: “Tai nạn giao thông thủy đã xảy ra nhiều vụ đáng tiếc. Ra biển là nhờ trời, chứ kinh khủng lắm”. Những hiện tượng buông lỏng quản lý nhà nước, cần phải siết chặt, từ quản lý phương tiện loại có động cơ và loại phương tiện không có động cơ (thuyền, thúng). Phương tiện đã tham gia giao thông là phải kiểm soát đăng ký đăng kiểm, chứ không có mảnh đất nào dành riêng cho bất kỳ ai. Có đò ngang chở hàng chục học sinh mà không đăng kiểm, người lái không có bằng chuyên môn thì thật đáng sợ.

Đa số các đại biểu đồng tình, người lái phải có chứng chỉ (bắt buộc), tùy quy mô tính chất loại phương tiện mà có linh hoạt hơn. Như phương tiện vận chuyển hàng hóa thì “linh động” hơn phương tiện chở hành khách. Chở hành khách phải làm chặt, từ khâu đào tạo người lái đò, lái thuyền. Đã lái phương tiện phải đăng ký hành nghề và tất cả các phương tiện giao phải đăng ký đăng kiểm, quy định vận tải 1 tấn trở lên phải đăng ký đăng kiểm.

Có đại biểu cho rằng, hiện nay trên 70% là phương tiện thủy rất kém, dễ xảy ra tai nạn. Cần phải làm chặt hơn loại phương tiện thủy kinh doanh, bao gồm cả đò ngang, đò dọc, tàu du lịch (định vị, thông tin..). Nếu không đủ điều kiện thì bỏ nghề đi, đó là một nghề kinh doanh có điều kiện. Đó là liên quan đến con người phải chặt chẽ hơn… có như vậy mới đảm bảo an toàn, bình yên cho mỗi người, mỗi nhà.

Chỉ ưu tiên bố trí vốn trả nợ xây dựng cơ bản và dự án có khả năng hoàn thành năm 2014

Tại phiên làm việc ngày 15/11, Quốc hội đã biểu quyết tán thành Nghị quyết về phân bổ ngân sách Trung ương năm 2014. Theo đó, dự toán tổng số thu ngân sách Trung ương là 495.189 tỷ đồng, tổng số thu ngân sách địa phương 287. 511 tỷ đồng; tổng số chi ngân sách được phê duyệt thông qua là 719.189 tỷ đồng. Việc phân bổ ngân sách Trung ương 2014 cho từng bộ, ngành, các cơ quan trung ương và cấp bổ sung từ ngân sách trung ương cho ngân sách từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Quốc hội cũng giao nhiệm vụ thu chi ngân sách nhà nước (NSNN) và phân bổ ngân sách Trung ương (NSTW) cho từng bộ, ngành, cơ quan Trung ương và từng tỉnh thành, phố trực thuộc Trung ương theo đúng quy định của Nhà nước và nghị quyết.

Theo Nghị quyết Quốc hội, chỉ ưu tiên bố trí vốn trả nợ xây dựng cơ bản và dự án có khả năng đưa vào sử dụng trong năm 2014, hạn chế khởi công dự án mới. Các dự án có quyết định đầu tư thực hiện đúng lượng vốn được giao, không làm phát sinh vốn. UBND các tỉnh, thành phải chịu trách nhiệm bố trí đủ vốn đối ứng để thực hiện dự án đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia.

Về ý kiến đề nghị tăng chi cho sự nghiệp y tế và một số ngành, lĩnh vực như cải cách tư pháp, phổ biến giáo dục pháp luật, nhiều ý kiến cho rằng việc bố trí kinh phí cho sự nghiệp y tế và cho hầu hết các ngành, lĩnh vực hiện còn ở mức thấp so với nhu cầu. Tuy nhiên, trong bối cảnh khó khăn chung của cân đối NSNN, nhiều nhiệm vụ chi chưa được bảo đảm, UBTV Quốc hội đề nghị các đại biểu Quốc hội chấp thuận mức bố trí kinh phí như Chính phủ trình. UBTV Quốc hội cho rằng, trong phương án phân bổ NSTW, việc đầu tư cho các vùng, địa bàn khó khăn, vùng bị ảnh hưởng thiên tai, bão lũ đã được chú trọng, ưu tiên. Cụ thể như, theo Quyết định số 60/2010/QĐ-TTg ngày 30/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ về định mức phân bổ vốn đầu tư phát triển đã ưu tiên bố trí vốn cho các địa bàn khó khăn, các địa phương có số thu cân đối ngân sách thấp, tập trung cho một số mục tiêu về giảm nghèo, hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi, khu neo đậu tránh trú bão, lũ...

Trong phương án phát hành bổ sung vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2014-2016 đã thể hiện định hướng ưu tiên cho đầu tư phát triển lĩnh vực giao thông, thủy lợi ở các tỉnh vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Đối với các địa phương bị ảnh hưởng trực tiếp bởi thiên tai, bão, lũ, Nhà nước sẽ bố trí sử dụng nguồn dự phòng để hỗ trợ trực tiếp cho các địa phương này. Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, UBTV Quốc hội đề nghị Chính phủ trong quá trình điều hành NSNN, tiếp tục xem xét hỗ trợ cho các địa phương trên từ nguồn vốn ODA, vốn viện trợ không hoàn lại của nước ngoài và các nguồn vốn hợp pháp khác để tập trung hoàn thành các công trình, dự án lớn thuộc lĩnh vực giao thông, y tế, thủy lợi và các công trình đê, kè, góp phần phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai.        

PV

Kim Quý - Vũ Hân
.
.
.