Bộ nào cũng thích "gánh trách nhiệm" nợ công vì lãnh nợ không phải lo trả nợ

Thứ Sáu, 16/06/2017, 14:07
Thảo luận tại hội trường về Luật Quản lý nợ công, các đại biểu (ĐB) vẫn bày tỏ băn khoăn lớn nhất về phạm vi nợ công và đầu mối quản lý nợ công. Một số ĐB lo ngại xáo trộn, nhất trí việc giữ nguyên như cũ để đảm bảo ổn định. Tuy nhiên, một số ĐB khác lại cho rằng ưu điểm ổn định, nhược điểm cũng “ổn định”: nợ công tăng nhanh về quy mô và tỷ lệ.

Nếu thực hiện như cũ ổn định, tại sao nợ công lại tăng nhanh?

ĐB Nguyễn Mạnh Cường (Quảng Bình) tán thành việc giữ nguyên 3 đầu mối: Bộ Tài chính chịu trách nhiệm về vốn đối ứng, cân đối trả nợ, đàm phán vay với các đối tác song phương; Bộ Kế hoạch & Đầu tư đàm phán vay vốn ODA và phân bổ vốn; Ngân hàng Nhà nước đàm phán các khoản vay của Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB). ĐB cho rằng “sửa luật phải trên cơ sở tổng kết thực tiễn, vướng mắc mới sửa. Trên thực tế, NHNN vẫn làm tốt việc này. Các bất cập về năng thực quản lý dự án, bố trí nguồn đối ứng, giải phóng mặt bằng... không phải do NHNN ký kết hiệp định”. Mặt khác, ĐB Cường cũng cho rằng NHNN đã là đại diện chính thức của Việt Nam ở WB ở ADB là hơn 40 năm, việc giao bảo đảm thuận lợi trong hoạt động, bảo đảm tính chuyên nghiệp, kế thừa, phù hợp thông lệ quốc tế.

Đại biểu Hoàng Quang Hàm

Ngược lại, ĐB Nguyễn Văn Tuyết (Bà Rịa – Vũng Tàu), Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội đặt câu hỏi: “Để sửa luật, phải tổng kết mô hình này thời gian qua đã hiệu quả hay chưa? Nếu hiệu quả tại sao nợ công của chúng ta lại tăng nhanh như vậy?” Mặt khác, ĐB cũng cho rằng nếu giữ 3 đầu mối sẽ không khắc phục được hạn chế xảy ra trên thực tế, không giảm được đầu mối hành chính, biên chế...

ĐB Hoàng Văn Cường (Hà Nội) cũng cho rằng: Việc giữ nguyên quy định về đầu mối quản lý như luật 2009 có “ưu điểm” căn bản là phát huy thế mạnh của mỗi cơ quan trong huy động các khoản vay, nhưng cũng chính vì vậy mà nợ công tăng nhiều, cấp độ nợ công tăng nhanh.

“Việc quy định như vậy không gắn trách nhiệm đi vay, sử dụng vốn với trách nhiệm trả nợ, không chỉ nguy hại với khả năng trả nợ mà cả tiến độ, dẫn đến dồn trách nhiệm trả nợ nặng vào một thời điểm như giai đoạn hiện nay” – ĐB nêu. Mặt khác, ĐB Cường cũng cho rằng “Cách phân chia tách rời là không phù hợp. Quy định trách nhiệm trong luật hiện nay rất mập mờ: trách nhiệm trong thẩm định giám sát, báo cáo...  Đó không phải là trách nhiệm mà là nhiệm vụ các cơ quan phải thực hiện. Các cụ xưa đã nói đời có 4 cái dại, trong đó có dại là lãnh nợ. Nhưng Luật không quy định lãnh nợ phải có trách nhiệm trả nợ, nên lãnh nợ không còn là “dại” như người xưa nói nữa”. Nếu không quy định trách nhiệm gánh hậu quả, thì cơ quan nào cũng muốn gánh “trách nhiệm” về mình” – ĐB nhấn mạnh.

ĐB Hoàng Quang Hàm (Phú Thọ) cũng đề nghị cân nhắc việc đưa về một đầu mối để giải quyết các bất cập đã đặt ra.

“Đành rằng 3 cơ quan thì đỡ xáo trộn bộ máy và có thể phân định trách nhiệm rõ hơn, nhưng thực tế là sự phối hợp chưa bao giờ thông suốt, bức tranh nợ công phải lắp ghép từ nhiều mảnh nên không bao giờ hoàn chỉnh; ODA chưa bao giờ kiểm soát được, luôn vượt dự toán, đẩy bội chi, nợ công lên cao ngoài dự kiến; chưa gắn được trách nhiệm vay, phân bổ với trách nhiệm đảm bảo nguồn để trả nợ, trách nhiệm khi xảy ra lãng phí, thất thoát” – ĐB nêu quan điểm.

ĐB Hoàng Quang Hàm cũng cho rằng “Không thể chối cãi là 1 đầu mối sẽ tốt hơn, thuận lợi hơn 3 đầu mối: gắn trách nhiệm vay, trả nợ, cân đối nguồn, phân bổ, tránh lãng phí thất thoát; giảm biên chế, tăng tính chuyên nghiệp; tăng niềm tin, giảm phiền hà cho người vay; nhanh chóng có 1 bức tranh tổng thể về nợ thay vì phải ghép nhiều mảng ghép như hiện nay; giảm chi phí vay vốn...”

Nợ DNNN tự vay tự trả có phải là nợ công?

ĐB Hoàng Quang Hàm cũng cho rằng: Luật này phải giải quyết gốc rễ 3 vấn đề: phạm vi nợ công; đầu mối quản lý nợ công; nhận diện được rủi ro nợ công và công cụ xử lý, đảm bảo đảm bảo dự phòng cho các rủi ro tiềm ẩn.

Mặc dù thống nhất phạm vi nợ công như tờ trình, nhưng ĐB không thống nhất việc Luật quy định không giám sát các khoản vay nợ không tính vào nợ công, vì khi rủi ro xảy ra thì nhà nước vẫn bị ảnh hưởng.

“Khi các đơn vị sự nghiệp công lập không trả được nợ tự vay - tự trả thì Nhà nước phải gánh thay để không ảnh hưởng đế ác nhiệm vụ đã giao cho các đơn vị này. Thực tế các đơn vị này cũng không thể phá sản. Còn DNNN có thể phá sản, nhưng uy tín quốc gia sẽ bị ảnh hưởng, khiến chi phí vốn vay cao, nợ của các DN này thành nợ xấu của ngân hàng... Nợ nước ngoài của DNNN được tính vào nợ nước ngoài của quốc gia, nên cần phải có quy định trong luật để giám sát và Nhà nước phải có giải pháp mang tính chính sách để quản trị rủi ro này” – ĐB nhấn mạnh.

Đại biểu Nguyễn Ngọc Bảo

Ngoài ra, nợ đọng xây dựng cơ bản, nợ hoàn thuế giá trị gia tăng, nợ mang tính điều hành... cũng phải có quy định rõ là phải giải quyết dứt điểm trong năm ngân sách, nếu không sang năm sau sẽ tăng sức ép và hạn hẹp ngân sách năm sau, ảnh hưởng đến bội chi, nợ công...

“Quốc tế không có điều này nên không có thông lệ. Chúng ta có thì phải xử lý”.

ĐB Trần Văn Tiến (Vĩnh Phúc) cũng cho rằng: Tờ trình đã chỉ ra những bất cập trong quản lý nợ công hiện nay, nhưng dự thảo lại chưa có gì đổi mới. “Vậy các DNNN, đơn vị sự nghiệp công làm ăn thua lỗ, không có khả năng trả nợ, thì nhà nước có giải cứu, có trả nợ thay không, gọi là nợ gì, đề nghị làm rõ”.

Theo ĐB Nguyễn Ngọc Bảo (Bắc Ninh) – Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế: Cần xem xét tính toán kỹ thêm với các khoản nợ Nhà nước không bảo lãnh với DNNN hoặc DN nhà nước giữ cổ phần chi phối. “Các DN đó song song tồn tại khoản vay có bảo lãnh và vay không có bảo lãnh, nếu DN không có khả năng trả thì trách nhiệm của Nhà nước đến đâu?” – ĐB đặt câu hỏi.

Thêm vào đó, ĐB cũng nêu thực tế là Nhà nước vẫn có các “hỗ trợ mềm” cho DNNN, như bổ sung vốn, khoanh, giãn, xóa nợ... Thực tế, chưa DNNN nào phá sản, mà luôn được ưu ái sử dụng phương pháp “mềm” xử lý khi thua lỗ... đều góp phần vào tăng chi tiêu ngân sách, ảnh hưởng đến nợ công. Ví dụ trường hợp Vinashin, Chính phủ đã bỏ tiền bù đắp; chuyển nợ sang Vinalines, PVN; cấp thêm để tăng vốn hay nợ của DN này trở thành nợ xấu của các ngân hàng thương mại...

Ngoài ra, các khoản nợ hoàn thuế giá trị gia tăng, cấp cho ngân hàng chính sách... đều phải dùng ngân sách để trả, nếu không tính đến sẽ rủi ro cho điều hành ngân sách. 


Vũ Hân
.
.
.