Trái cây đồng bằng sông Cửu Long: Nâng chất để xuất ngoại

Kỳ cuối: Cần giải pháp đồng bộ để vươn ra... “biển lớn”

Chủ Nhật, 16/07/2017, 07:27
Chính quyền địa phương kêu gọi doanh nghiệp liên kết với nông dân đảm bảo đầu ra ổn định sản phẩm. Chính nhờ sự liên kết này mà nhiều loại trái cây ngon của vùng ĐBSCL đạt chuẩn VietGAP, Global GAP như: chôm chôm, thanh long ruột đỏ, nhãn, xoài đã bước đầu được thị trường khó tính (như: Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc…) chấp nhận; đời sống của nhà vườn khấm khá lên…


Liên kết cùng tồn tại

Một thời gian khá dài, xuất khẩu trái cây của Việt Nam chủ yếu đi các thị trường tương đối dễ tính, trong đó có thị trường Trung Quốc. Những năm gần đây, trái cây Việt Nam đã xâm nhập vào các thị trường khó tính như: Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, Cannada, New Zealand, Chile, Hà Lan, Đức, Pháp...

Trong đó, thị trường như Hàn Quốc, Nhật Bản và Mỹ được xem là tiềm năng cho trái cây Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng. Năm 2016, năm xuất khẩu thành công nhất với 1,78 tỷ USD, tăng 95% so năm 2015.

Sở dĩ chúng ta xuất khẩu vào được các nước khó tính là nhờ vào nhiều mô hình sản xuất trái cây đạt tiêu chuẩn toàn cầu (GlobalGAP) hay tiêu chuẩn Việt Nam (VietGAP). Kỹ thuật sản xuất trái vụ trên cam, quýt, chôm chôm, sầu riêng, nhãn..., giúp nông dân ĐBSCL có thu nhập rất cao.

Túi bao trái cho mãng cầu gai, loại trái cây mang lại thu nhập cao cho nhiều nhà vườn ở Hậu Giang.

So với cây lúa, bình quân chỉ khoảng trên dưới 30 triệu/ha/năm, nhiều mô hình trái cây đã đạt đến mức lợi nhuận 300-500 triệu/ha như: thanh long, bưởi da xanh, cam sành, nhãn, sầu riêng...

Bến Tre có sản lượng trái cây hơn 305.000 tấn/năm, đứng vị trí thứ 3 về diện tích, sản lượng vùng ĐBSCL. Hiện có 10 HTX, 128 tổ hợp tác hoạt động có hiệu quả. Tỉnh đang tập trung 5 loại trái cây đặc sản, gồm: bưởi da xanh, chôm chôm, sầu riêng, nhãn, măng cụt.

Mới đây, tại hội thảo “Nâng cao chất lượng trái cây đặc sản tỉnh Bến Tre”, bà Phan Thị Thu Sương, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Bến Tre cho rằng để xuất khẩu trái cây tươi, quan trọng nhất là nâng cao khả năng bảo quản sau thu hoạch, đảm bảo vệ sinh an toàn. Nhà vườn gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp tiêu thụ để cùng xây dựng thương hiệu…

Nhưng hiện nay, các khâu này còn quá kém. Hơn 90% sản phẩm trái cây của Bến Tre tiêu thụ trong nước, xuất khẩu rất ít và trải qua nhiều khâu trung gian. Đặc biệt, diện tích trái cây đạt chứng nhận GAP còn quá ít. Nông dân luôn bị thua thiệt khi ký kết giao ước thu mua, tiêu thụ, hợp đồng xuất khẩu.

Ông Nguyễn Ngọc Nhân, Chủ nhiệm HTX chôm chôm Bình Hoà Phước (huyện Long Hồ, Vĩnh Long) bày tỏ, hiện nay nhiều người chưa biết nhiều về quy trình Global GAP nên không mặn mà tham gia. Còn các nhà vườn am hiểu về nông nghiệp, kỹ thuật thì việc sản phẩm có thương hiệu rất dễ bán và có giá cao.

Theo bà Nguyễn Thị Hồng Dung, Giám đốc Công ty TNHH MTV XNK Bảy Ngũ Hiệp (tỉnh Tiền Giang), doanh nghiệp sẵn sàng bao tiêu sản phẩm cho nông dân, nhưng nông sản đó phải đạt chất lượng và đủ số lượng. Vì thị trường Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản đã chấp nhận cho trái cây Việt Nam.

Đây là những thị trường lớn, bán được giá cao nhưng đòi hỏi rất nhiều yếu tố. “Doanh nghiệp và nông dân cần nhận thức rõ được tầm quan trọng của sự liên kết để tạo ra sản phẩm chất lượng cao, mẫu mã đẹp, giá thành hạ”, bà Dung thông tin.

Ông Lê Văn Vui, Giám đốc HTX nông nghiệp Vĩnh Kiên (thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng) đề xuất, để tăng khả năng tiêu thụ trên thị trường thì cần hướng đến bảo quản tốt sau thu hoạch. Sản phẩm khi đã được chứng nhận về chất lượng thì khả năng tiêu thụ và cạnh tranh với trái cây ngoại sẽ tốt hơn.

PGS-TS Nguyễn Minh Châu, nguyên Viện trưởng Viện Cây ăn quả miền Nam cho rằng, ĐBSCL tuy là vựa trái cây lớn nhất cả nước nhưng trái cây chưa có số lượng lớn và đồng đều về chất lượng, hình thức, mà nguyên nhân là do thiếu sự liên kết trong sản xuất. Điều này khiến người nông dân luôn chịu thiệt về giá cả.

Ngoài ra, hạn chế lớn của việc sản xuất trái cây tại đây là vẫn chưa có nhiều vùng chuyên canh sản xuất gắn với tiêu thụ. Hình thức liên kết 4 nhà ở các địa phương còn ít và nếu có thì các mối liên kết cũng rất yếu.

Tỷ lệ nông dân áp dụng thành công các tiêu chuẩn như GlobalGAP, VietGAP trong sản xuất trái cây còn thấp, phân tán, dẫn đến chất lượng sản phẩm không đồng đều, số lượng ít, mẫu mã chưa đảm bảo nhu cầu.

“Chúng ta đã có sẵn nhiều giống ngon đặc sản: như xoài cát Hòa Lộc, bưởi da xanh, quýt đường, cam sành, thanh long đỏ, nhãn xuồng cơm vàng, vú sữa Vĩnh Kim, măng cụt, chôm chôm nhãn, sầu riêng Ri-6. Ngoài ra, những trái cây khác như: đu đủ Đài Loan tím, khóm Queen (Cầu Đúc) là những mặt hàng trái cây độc đáo của Việt Nam. Tôi đã từng nghe rất nhiều chuyên gia nước ngoài hết lời khen ngợi xoài cát Hòa Lộc, bưởi da xanh, đu đủ Đài Loan tím, chuối Cau của mình. Nếu chúng ta có vùng chuyên canh lớn và an toàn thực phẩm thì việc xuất khẩu sẽ tăng rất nhiều so với hiện nay”, PGS-TS Nguyễn Minh Châu nhấn mạnh.

Để xuất khẩu trái cây tăng trưởng bền vững

PGS.TS Nguyễn Văn Sánh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển ĐBSCL (ĐH Cần Thơ) nêu ra 3 giải pháp. Thứ nhất, cần nâng cao năng lực qua tổ chức nông dân theo kinh tế hợp tác, tác động khoa học và kỹ thuật để giảm giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, cơ chế tín dụng cho nông dân để ứng dụng kỹ thuật.

Nông dân có sản phẩm tốt theo 4 đúng (chất lượng đồng nhất, lượng đủ khi ký hợp đồng với doanh nghiệp, sản xuất theo nhu cầu thị trường cần và hạ giá thành sản xuất) thì doanh nghiệp sẽ tìm đến.

Thứ hai, chính sách tích tụ ruộng đất để có quy mô trang trại lớn hơn, thứ ba là hệ thống đầu tư công liên quan thực hiện 4 đúng. Đồng thời, Chính phủ cần sớm ban hành khung thể chế, cơ chế, tổ chức và chính sách điều phối liên kết vùng.

PGS.TS. Nguyễn Minh Châu, nguyên Viện trưởng Viện cây ăn quả miền Nam đề xuất, việc cấp thiết là cần phải tổ chức lại sản xuất ngành hàng trái cây theo cách Nhà nước hỗ trợ tích cực hơn nữa để nông dân liên kết với nhau từ sản xuất đến tiêu thụ.

Trong mối liên kết 4 nhà, Nhà nước nên giữ vai trò “nhạc trưởng” tích cực hơn để hình thành vùng chuyên canh lớn, đưa được sản phẩm vào các siêu thị trong nước như Nhật Bản đã làm rất tốt. Kinh nghiệm của Nhật Bản là Nhà nước phải làm vai trò kết nối 3 nhà còn lại.

Hiện nay, mặc dù đã có nhiều công ty xuất khẩu trái cây nhưng Việt Nam chưa công ty xuất khẩu nào có thương hiệu trên thế giới. Xuất khẩu trái cây nước ta hiện nay do rất nhiều công ty nhỏ, cạnh tranh với nhau bằng cách hạ giá. New Zealand có công ty Zespri chuyên xuất khẩu trái Kiwi, Mỹ có công ty Dole chuyên lo xuất khẩu chuối già, dứa, xoài.

Mô hình này, họ tự tổ chức sản xuất, đóng gói đến xuất khẩu và tiếp thị quảng bá sản phẩm nên không có việc cạnh tranh hạ giá, chất lượng không đồng đều. Ở Nhật và Hàn Quốc, trái cây được phân loại, đóng gói theo kích cỡ trái và độ ngọt của từng trái. Bên ngoài thùng trái cây ghi rõ chất lượng trái trong thùng, nếu trái to và ngọt hơn sẽ được bán với giá cao hơn.

Cần thương hiệu trái cây mang tầm quốc tế

 “Nông dân sẵn sàng liên kết sản xuất theo kiểu mới, miễn là bán được hàng với giá cao. Họ sẽ cùng sản xuất một thứ trái, sản xuất theo cùng một quy trình. Theo cách này, mặc dù với diện tích từng hộ rất nhỏ, nhưng sản lượng của cả làng, cả xã sẽ lớn, đủ để tham gia xuất khẩu. Nhà nước cần tạo ra chính sách khuyến khích nông dân hợp tác, trực tiếp đứng ra chủ trì một cách quyết liệt để có vùng chuyên canh trái cây đặc sản. Nhà nước hỗ trợ để có một công ty chuyên xuất khẩu từ một đến hai loại trái đặc sản, tổ chức lại sản xuất và đóng gói theo cùng một quy cách. Kêu gọi doanh nghiệp gắn kết với nông dân xây dựng mô hình sản xuất theo hợp đồng, phát triển trong vòng 10 năm tới Việt Nam có 1-2 thương hiệu xuất khẩu trái cây Việt Nam có tiếng, có uy tín trên thế giới. Chúng ta không nên khuyến khích nhiều doanh nghiệp cùng xuất khẩu một mặt hàng như thanh long, vì như vậy họ sẽ cạnh tranh với nhau và có thể có việc hạ giá để bán được hàng như hiện nay. Australia từng học hỏi kinh nghiệm trồng xoài ở ĐBSCL. Nông dân Việt Nam tại Australia đã cho xoài chín trước 2 tháng so với nông dân Australia trong cùng điều kiện. Nhờ vậy, từ những người khó khăn lúc mới qua, đến nay rất nhiều nông dân Việt Nam tại Australia đã thu hoạch cả triệu USD mỗi năm nhờ bán xoài sớm”, PGS.TS. Nguyễn Minh Châu bày tỏ.

Văn Vĩnh
.
.
.