Đắk Nông cắm mốc giới hành lang an toàn lưới điện 220-500kV

Chủ Nhật, 10/12/2017, 15:15
Lãnh đạo UBND tỉnh Đắk Nông đã ký quyết định phê duyệt phương án cắm mốc 11 hệ thống đường dây 500 kV và 220 kV trên địa bàn tỉnh Đắk Nông với tổng chiều dài trên 500 km.


Ngày 6-12, lãnh đạo Truyền tải Điện Đắk Nông, Công ty Truyền tải Điện 3 cho biết đơn vị đang hoàn thiện phương án trình đơn vị chủ quản để triển khai phương án cắm mốc giới hành lang an toàn lưới điện cao áp 220-500 kV thuộc địa bàn tỉnh Đắk Nông.

Trước đó, lãnh đạo UBND tỉnh Đắk Nông đã ký quyết định phê duyệt phương án cắm mốc 11 hệ thống đường dây 500 kV và 220 kV trên địa bàn tỉnh Đắk Nông với tổng chiều dài trên 500 km.

Các hệ thống này bao gồm: đường dây 500 kV Pleiku – Đắk Nông; đường dây 500 kV Đắk Nông – Cầu Bông; đường dây 500 kV Pleiku 2 – Cầu Bông; đường dây 220 kV Buôn Kuốp – Đắk Nông; đường dây 220 kV Buôn Kuốp – Buôn Tua Sarh; đường dây 220kV buôn Tua Sarh – Đắk Nông; đường dây 220 kV Đồng Nai 3 – Đắk Nông; đường dây 220 kV Đồng Nai 4 – Đắk Nông; đường dây 220 kV Đồng Nai 5 – Đắk Nông; đường dây 220 kV Đắk Nông – Bình Long; và đường dây 220 kV cấp điện cho Nhà máy điện phân nhôm Đắk Nông.

Việc xây dựng hệ thống mốc giới cho hệ thống điện cao áp được quy định tại Nghị định số 14/2014/NĐ- CP, ngày 26/2/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Điện lực về An toàn điện.

Theo đó, mốc giới hành lang an toàn lưới điện được xác định là khoảng cách từ dây ngoài cùng (chiếu theo phương thẳng đứng) ra mỗi bên 6 mét đối với đường dây 220 kV và 7 mét đối với đường dây 500 kV.

Cũng theo Truyền tải điện Đắk Nông, việc cắm mốc nhằm xác định rõ ranh giới hành lang an toàn lưới điện cao áp, giúp các tổ chức, cá nhân nhận biết rõ ranh giới, không vi phạm hành lang an toàn theo quy định.

Đồng thời giúp chính quyền các địa phương thuận lợi hơn trong công tác quản lý, đảm bảo an toàn cho các bên liên quan. Việc xây dựng hệ thống mốc giới được xác định là làm càng sớm càng tốt và Đắk Nông là một trong số các tỉnh đầu tiên triển khai chương trình này.

TTXVN
.
.
.