Đổi mới công nghệ:

‘Chìa khóa’ đưa doanh nghiệp Việt ra biển lớn

Chủ Nhật, 30/08/2015, 08:11
Bước vào nền kinh tế cạnh tranh, hội nhập sâu rộng, các doanh nghiệp Việt đã nhìn ra con đường tất yếu phải đi, đó là đổi mới công nghệ. Sức cạnh tranh của một nền kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào trình độ khoa học công nghệ của một quốc gia. Đi thẳng vào công nghệ cao là cách mà nhiều doanh nghiệp đang làm để tạo ra những sản phẩm mang tầm quốc tế…

Bài học từ công nghệ cũ

Tổng công ty phát điện 1 (Tập đoàn Điện lực Việt Nam) tiền thân là nhà máy nhiệt điện Uông Bí đã phải xin tạm dừng tổ máy 110 MW từ ngày 1-1-2015 vì công nghệ quá cũ, không đảm bảo tiêu chí môi trường. Đây là dây chuyền công nghệ do Liên Xô tài trợ từ những năm 1970 nên đã hết thời gian khấu hao. Để tận dụng máy móc, thiết bị, nhà máy đã tiến hành nâng cấp dây chuyền công nghệ.

“Chúng tôi đã đầu tư hơn 100 tỉ đồng để xử lí khói nhưng nồng độ lưu huỳnh vẫn cao quá mức cho phép nhiều lần. Mặc dù theo lộ trình, tổ máy được hoạt động đến năm 2020 nhưng sau khi xem xét, các tiêu chuẩn môi trường không đạt, chúng tôi quyết định dừng hoạt động tổ máy trước thời hạn” - ông Lê Văn Hanh, Phó Tổng giám đốc Tổng công ty phát điện 1 cho biết.

Để nâng cao hiệu suất phát điện, Tổng công ty phát điện 1 đã nâng cấp 2 tổ máy, trong đó tổ máy 300 MW do tổng thầu là Lilama phụ trách; tổ máy 330 MW do nhà thầu Trung Quốc đảm nhiệm

Dây chuyền cắt thép hoàn toàn tự động của Công ty đóng tàu Hạ Long. 

Cảng Quảng Ninh hiện có sản lượng bốc dỡ hàng rời lớn nhất ở miền Bắc. Trung bình mỗi tháng, có khoảng gần 1.000 ôtô, 600-700.000 tấn thức ăn gia súc được nhập về qua cảng. Ông Quách Đình Phú – Phó Tổng giám đốc Công ty CP cảng Quảng Ninh cho biết, trước đây cảng chủ yếu nhập trang thiết bị của Trung Quốc. Sau khi Nhà nước đầu tư bến tàu 567 thì chuyển sang nhập máy móc hiện đại từ Nhật Bản.

Tuy nhiên, cơn lốc lớn năm 2006 đã khiến đổ sập gần như toàn bộ số trang thiết bị này. Khi đó, nếu không vận hành lại dây chuyền bốc dỡ thì hàng nghìn công nhân của cảng sẽ phải nghỉ việc. Nếu mua trang thiết bị mới thì phải đặt hàng, ít nhất gần 2 năm mới có. Để cảng sớm hoạt động ổn định trở lại, lãnh đạo công ty đã xin mua một số thiết bị đã qua sử dụng có tuổi thọ trên 15 năm. Số thiết bị này đáp ứng được yêu cầu cấp bách khi đó nhưng hiệu suất không cao. Khi cảng đã hoạt động ổn định, dây chuyền công nghệ cũ được nâng cấp, đồng thời nhập thêm những công nghệ mới.

Trước đây, việc bốc dỡ chủ yếu được thực hiện bằng các loại máy ngoạm cỡ nhỏ từ 2,5-5m3, do các nhà máy trong nước chế tạo với giá thành từ 40-50 triệu. Để gia tăng công suất bốc dỡ, cảng Quảng Ninh đã đầu tư các máy ngoạm cỡ lớn (25m3), nhập khẩu từ Hàn Quốc, với giá thành lên tới 1,4 tỉ đồng/chiếc. Đây là công nghệ bốc dỡ tiên tiến bậc nhất thế giới, có điều khiển từ xa, vừa an toàn cho thiết bị, hàng hoá vừa đảm bảo năng suất tăng gấp 2-3 lần.

Đi thẳng vào công nghệ cao

Trên diện tích 50ha nằm cạnh cảng nước sâu Cái Lân, Công ty đóng tàu Hạ Long cũng đã đầu tư dây chuyền công nghệ mới, áp dụng tiêu chuẩn hàng hải quốc tế. Toàn bộ trang thiết bị được nhập từ các nước có ngành công nghiệp đóng tàu hàng đầu thế giới như Ba Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đan Mạch, Italia, Mỹ…

Hệ thống nhà xưởng, kho bãi, cầu cảng… của công ty có thể đáp ứng thi công cùng lúc 10 tàu có trọng tải từ 8.700 tấn, 12.500 tấn, 53.000 tấn đến hơn 70.000 tấn với dây chuyền khép kín. Ông Đàm Đức Kháng – Phó Tổng giám đốc Công ty đóng tàu Hạ Long cho biết, ngành công nghiệp đóng tàu ở Việt Nam chủ yếu mang tính gia công nên giá trị gia tăng không lớn. Ngành công nghiệp phụ trợ trong nước lại non yếu nên hầu hết trang thiết bị đều phải nhập từ nước ngoài.

Để có thể cạnh tranh được với thị trường quốc tế, các cơ sở đóng tàu trong nước phải đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm và năng suất lao động. “Năm 2000, Chính phủ Ba Lan có đề nghị hỗ trợ đầu tư cho chúng tôi 147 tỉ đồng vốn vay ODA. Sau khi thẩm định, chúng tôi đã từ chối vì công nghệ của họ quá cũ, gây ảnh hưởng tới môi trường. Sản phẩm của công ty chủ yếu bán cho nước ngoài, nếu không đổi mới công nghệ thì không thể có những đơn hàng quốc tế. Chúng tôi không thể sử dụng công nghệ từ năm 1976 để chế tạo những con tàu hiện đại” – ông Kháng nói thêm.

Tại xưởng chế tạo tàu trọng tải 53.000 tấn, tất cả các loại máy cắt đều nhập từ Nhật Bản, Đài Loan, cả dây chuyền hoàn toàn tự động. Với công nghệ cũ, mỗi năm nhà máy chỉ xử lí được 2.000 tấn thép. Tuy nhiên, với dây chuyền công nghệ tự động này, mỗi tháng có thể xử lí được 3.000 tấn thép, gấp gần 20 lần.

Đi thẳng vào công nghệ cao để có giá trị gia tăng cao hơn là hướng đi mà nhiều doanh nghiệp đang làm. Công ty TNHH Hương Hải (xã Lê Lợi, Hoành Bồ, Quảng Ninh) đã đi tiên phong trong việc xây dựng nhà máy sản xuất vôi hoá lớn nhất Việt Nam với dây chuyền công nghệ hiện đại, hoàn toàn tự động hoá. Với công nghệ nguồn nhập từ Italia, công suất toàn bộ dây chuyền có thể đạt 980.000 tấn/năm. Mặc dù đầu tư vài trăm tỉ cho dây chuyền công nghệ cao song doanh nghiệp này cũng gặp không ít khó khăn. “Giá vôi từ các lò thủ công là 1,150 triệu đồng/tấn, trong khi giá thành của chúng tôi từ 80-90 USD/tấn. Nếu so sánh về giá, chúng tôi không thể cạnh tranh được với các lò thủ công. Nếu Nhà nước không có cơ chế hỗ trợ thì những doanh nghiệp công nghệ cao, đầu tư vào chế biến sâu như chúng tôi sẽ thua lỗ”, ông Bùi Tuấn Ngọc, Giám đốc Công ty TNHH Hương Hải bộc bạch.

Khánh Vy
.
.
.