Người K’ho nỗ lực vì bình yên cánh rừng

Thứ Sáu, 10/04/2015, 13:19
Đứng trên đỉnh núi Mẹ Lang Biang, phóng tầm mắt ra xa, đang giữa mùa khô Tây Nguyên nhưng cánh rừng rộng 2.790ha, thuộc xã Đạ Sar, huyện Lạc Dương (Lâm Đồng), do đồng bào K’ho nhận khoán trông coi, bảo vệ vẫn một màu xanh mướt. Nhiều năm qua, dưới sự che chở của người K’ho, rừng thiêng nơi đây đã không còn chảy máu...

Đã thành thông lệ, sáng chủ nhật, dù bận bịu thế nào thì đồng bào K’ho ở các buôn làng tại xã Đạ Sar, huyện Lạc Dương vẫn dành thời gian đến với Thánh đường làm lễ. Thế nhưng, vẫn có 32 người nhận trông coi, bảo vệ 2.790ha rừng của xã Đạ Sar đã nhiều năm qua họ tạm gác đời sống tâm linh lại để đến với rừng. Ai cũng ý thức rằng, rừng thiêng, nhất là vào mùa khô không thể một ngày thiếu vắng bóng họ.

Ông Lơ Mu Ha Beock (58 tuổi), ngụ thôn 5, xã Đạ Sar, là trưởng nhóm nhận khoán, trông coi bảo vệ rừng cho biết, từ khi Tây Nguyên bước vào mùa khô đến nay chưa ngày nào ông và cộng sự ở nhà. Họ vào rừng từ rất sớm và chỉ trở về lúc mặt trời đã rơi sang bên kia núi Mẹ.

Với người K’ho ở Đạ Sar, Ha Beock là một vị thủ lĩnh dẫn đầu trong công tác quản lý, bảo vệ rừng. Ông đã dành gần trọn đời mình để gắn bó với rừng. Ngay cả khi trước đây Nhà nước chưa có chính sách hỗ trợ gì cho người trông coi rừng, ông cũng đã cùng người dân địa phương vẫn xem đại ngàn rừng xanh là trái tim của buôn làng, bất khả xâm phạm.

Người dân xử lý thực bì để chống cháy rừng Đạ Sar trong mùa khô.

Ha Beock kể, với đồng bào K’ho, rừng trở nên linh thiêng, che chở cho buôn làng hết đời này đến đời khác. Thế nhưng, hơn chục năm trở lại đây, nhất là khi tuyến đường 723, nối liền Đà Lạt với Nha Trang chạy qua thì làn sóng di cư từ nơi khác vào Đạ Sar một cách ồ ạt, đất sản xuất bị thiếu. Không ít người tìm mọi cách hủy hoại rừng, cho thông “uống” độc dược để “giải phóng mặt bằng” lấy đất canh tác.

Công tác quản lý, bảo vệ rừng ngày càng trở nên nan giải, khó khăn gấp bội lần so với trước đây. Những người nhận khoán bảo vệ rừng gần như chẳng ngày nào được nghỉ ngơi. Lúc vượt rừng, khi lội suối, sáng ở cánh rừng này, chiều sang cánh rừng bên kia, đôi chân của họ chỉ được nghỉ ngơi khi đêm về. Không ít đêm, họ phải thức trắng truy đuổi những kẻ hủy hoại rừng.

Theo Ha Beock, bây giờ chỉ cần lơ là, buông lỏng quản lý vài ngày là có thể hàng chục, thậm chí hàng trăm cây thông sẽ bị kẻ xấu đầu độc một cách không thương tiếc.

Từ năm 2009, khi nhà nước có chính sách giao rừng cho nhân dân trông coi, ưu tiên đồng bào các dân tộc tại địa phương, Ha Beock cùng 31 người khác đã nhận trông coi, bảo vệ 2.790ha rừng phòng hộ đầu nguồn. Với chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng của Nhà nước, những người nhận trông coi, bảo vệ rừng như ông Ha Beock mỗi năm thu về trên 10 triệu đồng.

Ha Beock cho biết, năm 2009, mỗi hecta rừng nhận trông coi chỉ được trả 200.000đ/ha thì nay, số tiền đã nâng lên 450.000đ/ha và dự kiến sẽ còn tiếp tục tăng trong những năm tới. Đây là số tiền không nhỏ giúp gia đình những người nhận trông coi rừng như ông trang trải cuộc sống và có trách nhiệm với rừng cao hơn.

Ông Trịnh Xuân Tự, Phó Trưởng Ban quản lý rừng phòng hộ đầu nguồn Đa Nhim cho biết, hiện Ban quản lý rừng phòng hộ đầu nguồn Đa Nhim đã giao 31.184,51ha rừng cho 1.147 hộ và 5 tập thể trông coi, quản lý theo hình thức chi trả dịch vụ môi trường rừng. Từ khi nhà nước có chính sách giao rừng cho nhân dân địa phương quản lý, trông coi, diện tích rừng đã không còn bị xâm phạm nghiêm trọng như trước đây.

Nhận thức quản lý, bảo vệ rừng trong nhân dân đã có sự chuyển biến rõ rệt. Công tác giao khoán quản lý bảo vệ rừng đã giúp người dân có một nguồn thu nhập ổn định, cải thiện đời sống, góp phần xóa đói giảm nghèo tại địa phương.

Kim Ngân
.
.
.