Nghịch lý lao động Việt Nam phải trả phí cao ngất ngưởng để đi làm việc ở nước ngoài

Chủ Nhật, 21/09/2014, 10:43
Mỗi lao động Việt Nam phải trả phí môi giới tuyển dụng là 3.500 Malaysian Ringgit (tương đương 1.080 USD), mức cao nhất so với các nước Myanmar, Indonesia và Nepal. Trong khi đó, lao động Việt Nam nhận lương thấp nhất, chưa đến 1.000 Malaysian Ringgit (308 USD)/tháng. Có tới 40% lao động Việt Nam ở trong tình trạng lao động cưỡng bức. Đây là những điểm đáng suy nghĩ được đưa ra trong báo cáo về “Lao động cưỡng bức trong sản xuất đồ điện tử ở Malaysia - Nghiên cứu toàn diện về phạm vi và đặc điểm” do Verité, một tổ chức phi chính phủ quốc tế, vừa công bố cuối tuần qua.

Mỗi lao động Việt Nam phải trả phí môi giới tuyển dụng là 3.500 Malaysian Ringgit (tương đương 1.080 USD), mức cao nhất so với các nước Myanmar, Indonesia và Nepal. Trong khi đó, lao động Việt Nam nhận lương thấp nhất, chưa đến 1.000 Malaysian Ringgit (308 USD)/tháng. Có tới 40% lao động Việt Nam ở trong tình trạng lao động cưỡng bức, tỷ lệ cao nhất so với các quốc tịch khác. Đây là những điểm đáng suy nghĩ được đưa ra trong báo cáo về “Lao động cưỡng bức trong sản xuất đồ điện tử ở Malaysia - Nghiên cứu toàn diện về phạm vi và đặc điểm” do Verité, một tổ chức phi chính phủ quốc tế, vừa công bố cuối tuần qua.

Đào tạo ngoại ngữ cho các đối tượng tạo nguồn xuất khẩu lao động. Ảnh: TTXVN.

Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), báo cáo là kết quả của cuộc điều tra kéo dài 2 năm, dựa trên những tiêu chuẩn về lao động cưỡng bức của ILO, cho thấy một phần ba lao động nhập cư trong ngành điện tử tại Malaysia (bao gồm các lao động Việt Nam) ở trong tình trạng bị cưỡng bức lao động. Có tới 32% trong tổng số gần 200.000 lao động nước ngoài làm việc trong ngành điện tử có liên quan đến việc họ bị giữ hộ chiếu và phải làm việc thêm giờ để trả những món nợ do bị thu phí môi giới tuyển dụng quá cao và bất hợp pháp. Trong đó lao động Việt Nam được liệt vào danh sách phải trả phí môi giới tuyển dụng cao nhất.

Mặc dù tình trạng lao động nhập cư vào các nước khác không phải là đối tượng được nghiên cứu nhưng trên thực tế từ chia sẻ của nhiều lao động Việt Nam đi làm việc tại Đài Loan (số lượng lao động Việt Nam đi làm việc Đài Loan trong vài năm trở lại đây thường chiếm gần 50% tổng số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài) cũng đã phải chi trả một khoản phí môi giới cao hơn nhiều so với các quốc gia cùng phái cử lao động vào Đài Loan. Tương tự diễn ra ở thị trường Nhật Bản…

Dù có được cơ quan quản lý nhà nước kiểm soát và tìm giải pháp ngăn chặn nhưng chính sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp dịch vụ XKLĐ trong nước, cũng như hình thức xử phạt còn nhẹ, thiếu tính răn đe, cơ chế xin-cho… mà mức phí thực tế mà lao động phải bỏ ra trước khi đi thường cao hơn nhiều so với quy định. Và ai phải chịu trách nhiệm về sự bất hợp lý này? Từ trước đến nay nó vẫn như một sự bất hợp lý nghiễm nhiên được công nhận?!

Dù có mức trần được Bộ LĐ-TB&XH công bố nhưng người lao động Việt Nam đi làm việc ở Đài Loan vẫn phải trả mức phí cao hơn nhiều so với lao động các nước.

Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) khu vực châu Á - Thái Bình Dương đặc biệt lo ngại về những phát hiện đưa ra trong báo cáo của Verité. Mặc dù không ở vị trí xác minh các con số cụ thể đưa ra trong báo cáo, nhưng ILO khu vực châu Á - Thái Bình Dương khẳng định rằng có tồn tại những vấn đề thực sự về điều kiện làm việc, công việc và quá trình tuyển dụng, đặc biệt là đối với người lao động nhập cư và những vấn đề này cần được giải quyết một cách cấp bách. Với việc hướng sự chú ý tới những hành vi bóc lột này, báo cáo của Verité tạo cơ hội cho Chính phủ Malaysia và chủ sử dụng lao động ở Malaysia tiến hành rà soát lại cách thức tuyển dụng và các việc làm trong ngành chế tạo điện tử, cũng như xem xét lại các chính sách phần nào đặt người lao động vào tình huống dễ bị tổn thương. Cụ thể, Malaysia có thể nỗ lực hơn trong việc hỗ trợ người lao động dễ dàng chuyển đổi công việc, bảo vệ quyền gia nhập các tổ chức công đoàn, và đảm bảo rằng những cuộc thảo luận về chính sách di cư có sự tham gia của các tổ chức đại diện cho người sử dụng lao động, người lao động cũng như các cơ quan liên quan trong Chính phủ.

ILO tại Việt Nam cho biết, tổ chức này đã nêu ý kiến của mình với Chính phủ Malaysia, tổ chức của chủ sử dụng lao động và người lao động về việc dự thảo một dự án Luật nhằm thắt chặt các quy định đối với công ty tuyển dụng tư nhân. Dự thảo Luật này cần phải được mở rộng độ bao phủ sang cả các công ty cho thuê lại lao động. ILO đã hỗ trợ đào tạo cho một số thanh tra lao động của Chính phủ Malaysia, giúp họ nhận biết và đối phó với nạn buôn bán người phục vụ bóc lột lao động. ILO luôn sẵn sàng giúp đỡ nhằm giải quyết vấn đề này. Hiện ILO đang làm việc với Liên đoàn Chủ sử dụng lao động của Malaysia (MEF) để xây dựng những hướng dẫn về tuyển dụng và bố trí việc làm cho lao động di cư. MEF cũng đã đưa ra một số kiến nghị với Chính phủ nhằm làm giảm bóc lột, chi phí và làm cho quá trình tuyển dụng công bằng và minh bạch hơn.

Bộ LĐ-TB&XH Việt Nam cũng không thể đứng ngoài cuộc trước thực trạng này, không chỉ kiểm soát chặt DN dịch vụ XKLĐ trong nước mà còn tăng cường năng lực kiểm soát, bảo vệ lao động Việt Nam ở nước ngoài

Thu Uyên
.
.
.