Đỡ nghèo, đỡ khổ nhờ “cây nhân đạo”

Thứ Hai, 25/03/2013, 23:08
Mỗi gia đình tự nguyện hiến hoa lợi từ một cây ăn quả (cây dừa, nhãn, cam, bưởi…) và gắn biển “cây nhân đạo”, tạo nguồn quỹ giúp đỡ cho những ai gặp lúc khó khăn và đang được nhân rộng ra toàn tỉnh Trà Vinh… Từ khi hoạt động đến nay, nhiều gia đình khi có hữu sự đã nhận được sự giúp đỡ kịp thời của “cây nhân đạo”.

Nhằm giúp đỡ những gia đình có hoàn cảnh khó khăn, năm 2011 xã An Phú Tân (Cầu Kè, Trà Vinh) đã triển khai mô hình “cây nhân đạo”. Theo đó, mỗi gia đình tự nguyện hiến hoa lợi từ một cây ăn quả (cây dừa, nhãn, cam, bưởi…) và gắn biển “cây nhân đạo”, tạo nguồn quỹ giúp đỡ cho những ai gặp lúc khó khăn. Từ khi hoạt động đến nay, nhiều gia đình khi có hữu sự đã nhận được sự giúp đỡ kịp thời của “cây nhân đạo” và đang được nhân rộng ra toàn tỉnh Trà Vinh…

Khởi xướng cho phong trào này là ông Nguyễn Văn Quý (còn gọi là Ba Quý), Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ (CTĐ) huyện Cầu Kè. Ông Quý bày tỏ: “Mỗi lần trong huyện có thiên tai thì mới đi vận động bà con giúp nhưng lúc ấy thì trễ nên tôi nghĩ ra mô hình cây nhân đạo”. Nghĩ là làm, ông Quý đến Hội CTĐ từng xã vận động. Đến năm 2011, trong kỳ Hội nghị Ban chấp hành Hội CTĐ huyện, ông Quý đem chuyện này ra bàn. Khi đó, ông Nguyễn Văn Guôl, Chủ tịch Hội CTĐ xã An Phú Tân thấy “cây nhân đạo” là mô hình thiết thực để giúp người nghèo. Vì vậy, ông Guôl đã về vận động anh em trong Ban Chấp hành được 10 cây ăn quả và gắn biển “cây nhân đạo”.

Ông Nguyễn Văn Guôl (bên phải), Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ xã An Phú Tân bên cây dừa nhân đạo.

Theo mô hình này, nếu người nào tham gia, Hội CTĐ xã sẽ đến vườn người đó đóng biển “cây nhân đạo”. Theo đó, hoa lợi thu được từ “cây nhân đạo” sẽ được đóng góp vào quỹ của Hội CTĐ. Tuy nhiên, sau đó thấy việc này khó quản lý và kém hiệu quả nên Hội CTĐ đã thống nhất, ai tham gia “cây nhân đạo” thì đóng góp 100.000 đồng/tương đương một “cây nhân đạo”. Ông Guôl bộc bạch: “Nhiều người bán hoa lợi từ “cây nhân đạo” gần cả triệu đồng cũng tự nguyện đóng góp hết để giúp đỡ những người khó khăn. Một số người còn góp đến 2 - 3 “cây nhân đạo” nữa”.

Đến cuối năm 2012, Hội CTĐ xã An Phú Tân có thêm 65 hội viên tự nguyện đến đăng ký đóng bảng và góp tiền 100.000 đồng/cây/năm. Thấy xã An Phú Tân thực hiện mô hình này có hiệu quả, nên hầu hết các xã trong huyện Cầu Kè cũng áp dụng mô hình này. Tại xã Phong Phú đã gắn biển “cây nhân đạo” được 158 cây; các xã: Hòa Tân (20 cây), Thông Hòa (23 cây), Thạnh Phú (20 cây), Ninh Thới (80 cây)…

Ông Ba Quý bộc bạch, việc “trồng” cây nhân đạo khá dễ dàng. Hiện toàn huyện Cầu Kè hiện có 462 “cây nhân đạo”, nhiều nhất là ở xã Phong Phú với 158 cây. Nhiều hộ nghèo cũng đăng ký tham gia gắn biển “cây nhân đạo”.

Từ ngày đầu phát động mô hình “cây nhân đạo”, bà Đặng Thị Thẩm (ấp Hòa An, xã An Phú Tân) rất hồ hởi, tích cực tham gia. Là hộ nghèo trong xã, hằng ngày hành nghề chèo đò ngang kiếm sống, nhà không ruộng vườn, chỉ có 3 cây dừa trồng nhưng với tấm lòng thương người, bà Thẩm không ngần ngại trích số tiền 100.000 đồng/năm để đóng góp.

“Khi nghe xã có phong trào này, tôi đã tự nguyện góp 1 cây dừa gắn biển “cây nhân đạo”. Vì những lúc có thiên tai, mấy anh trên xã đi vận động người dân, biết đâu ngay lúc ấy mình không có tiền hoặc có quyên góp cũng là con số ít ỏi. Vì vậy, với “cây nhân đạo”, địa phương chủ động hơn trong việc giúp đỡ người nghèo, người bị ảnh hưởng bởi thiên tai”, bà Thẩm tâm sự.

Gia đình chị Nguyễn Thị Rớt (38 tuổi, ngụ xã Phong Thạnh) đã được giúp đỡ tiền từ “cây nhân đạo”. Chị Rớt cho biết: “Vừa rồi đứa nhỏ ngã bệnh không tiền đưa cháu đi bệnh viện, cũng may Hội CTĐ   xã đến thăm hỏi và giúp gia đình 1 triệu đồng lo thuốc thang cho cháu. Vợ chồng em biết ơn hội và bà con trong xóm nhiều lắm”.

Phong trào “cây nhân đạo” của Hội CTĐ huyện Cầu Kè đã được lãnh đạo tỉnh Trà Vinh đánh giá cao và được phát động nhân rộng ra toàn tỉnh. Ông Quý tâm sự: “Chúng tôi sẽ tiếp tục nhân rộng mô hình “cây nhân đạo”. Đây cũng là cách tuyên truyền để người dân thắt chặt tình nghĩa xóm làng, cũng như việc bảo vệ môi trường bằng hình thức trồng “cây nhân đạo”

Văn Vĩnh
.
.
.