Báo động tình trạng di cư ở châu thổ Cửu Long

Thứ Bảy, 02/01/2021, 10:36
Hiện, tình trạng di cư từ châu thổ Cửu Long đến TP Hồ Chí Minh, miền Đông Nam Bộ đáng báo động. So với các vùng khác trên cả nước, vùng châu thổ này có tỷ lệ nhập cư thấp nhất, tỷ lệ xuất cư cao nhất và là vùng duy nhất có tỷ lệ tăng dân số 0,0% trong giai đoạn 2009 – 2019…


Trung tuần tháng 12/2020 vừa qua, tại Cần Thơ, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức công bố “Báo cáo kinh tế thường niên đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) năm 2020”. 

Đây là công trình hợp tác nghiên cứu giữa VCCI và Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright (FSPPM) sau hơn 1 năm thực hiện. Theo đó, dân số vùng ĐBSCL giai đoạn 2009-2019 gần như không đổi so với 10 năm trước đó. Theo kết quả điều tra dân số và nhà ở, dân số ĐBSCL vào thời điểm 1/4/2019 là 17,3 triệu người, gần như không có sự thay đổi đáng kể nào so với mức 17,2 triệu người từ 10 năm trước. 

Ngược lại, số lượng di cư khỏi châu thổ này trong thập niên vừa qua là gần 1,1 triệu người, lớn hơn dân số của một số tỉnh trong vùng; tương đương với số tăng dân số tự nhiên của cả vùng. Báo cáo nêu rõ, trong giai đoạn 2009-2019, dân số thành thị của vùng ĐBSCL chỉ tăng 0,98%/năm và dân số tăng bình quân là 0,05%/năm, rất khiêm tốn so với 2,62% và 1,14% bình quân của cả nước.

Sau Tết Nguyên đán, dòng người từ ĐBSCL lại di chuyển lên TP Hồ Chí Minh,  miền Đông Nam Bộ để mưu sinh. Ảnh: CTV

Trong 10 năm, dân số thành thị của ĐBSCL chỉ tăng 403.000 người, chiếm 5,3% số tăng dân số thành thị của cả nước, trong khi tổng dân số chiếm gần 18% dân số cả nước. Điều đó cho thấy khoảng cách về dân số đô thị của ĐBSCL so với cả nước đang bị giãn ra. Đô thị của vùng không phát triển nên chưa tạo nhiều giá trị kinh tế gắn với việc làm nên dẫn đến tình trạng di cư rất lớn. Ngay cả 4 địa phương trọng điểm kinh tế của vùng là An Giang, Cà Mau, Kiên Giang và TP Cần Thơ cũng có sự sụt giảm so với cả nước. 

Theo phân tích trong “Tăng trưởng các vùng kinh tế trọng điểm giai đoạn 2011-2017” của Tổng cục Thống kê, năm 2011, 4 địa phương này chiếm 4,92% GDP cả nước… thì đến năm 2017 chỉ còn 4,69%. Theo TS Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc FSPPM (Trưởng nhóm nghiên cứu), nếu tình trạng di dân tiếp tục như hiện nay (mà khả năng này rất cao), thì đến năm 2030, dân số của vùng còn chưa đến 17 triệu người.

Theo một số chuyên gia, vấn đề di cư tại châu thổ Cửu Long sẽ tiếp tục diễn ra bởi các tác động, thách thức an ninh phi truyền thống, như: Biến đổi khí hậu (hạn hán, xâm nhập mặn, nước biển dâng…); xây đập thủy điện từ thượng nguồn (cạn kiệt nguồn nước, không còn lũ…); hoạt động sản xuất; chất lượng cuộc sống và môi trường tại ĐBSCL…

Ông Phạm Thiện Nghĩa, Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp chia sẻ, Báo cáo đã đánh giá công phu, nhiều số liệu có tính cảnh báo về những bất cập, sa sút của vùng, đặc biệt là cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực... Điểm yếu nhất trong xây dựng kinh tế ĐBSCL là vấn đề kết nối, hợp tác. Nói châu thổ Cửu Long trù phú, lao động nhiều, nhưng 10 năm qua, di cư trên 1,1 triệu người là vấn đề đáng bàn. Để đảm bảo người dân ở lại, phục vụ phát triển thì cần có chính sách dài hạn. 

“Đối với Đồng Tháp, ngoài đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, địa phương đã phát triển các khu đô thị, đã tạo việc làm cho người lao động. Ngoài ra, tiến hành nhiều giải pháp phát triển trường nghề, đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, phát triển khởi nghiệp, phát triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn… Chính sách này đã tạo công ăn, việc làm khá ổn định với người lao động, có sự chuyển nghề trong nông nghiệp đối với Đồng Tháp”, ông Nghĩa nói. 

Còn ông Nguyễn Phương Lam, Giám đốc VCCI Chi nhánh Cần Thơ cho biết, phần đông người xuất cư là người dân nông thôn, nguyên nhân do khu vực nông thôn với nhiệm vụ sản xuất nhưng lại chưa được tái đầu tư để người dân được hưởng lợi nên họ đi nơi khác tìm cuộc sống mới. 

Ngoài ra, nghiên cứu cho thấy tốc độ đô thị hóa ở ĐBSCL hiện nay thấp nhất cả nước, điều kiện sống không tốt bằng những vùng khác. Tuy nhiên, theo ông Lam, nguyên nhân cốt lõi xuất phát từ việc thiếu việc làm, mà việc làm lại phụ thuộc vào giao thông. Khi giao thông cách trở thì ảnh hưởng đầu tiên là thiếu thu hút đầu tư từ nước ngoài. 

Số liệu đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ĐBSCL là thấp nhất cả nước, chứng tỏ vùng ít nhà máy, ít có những doanh nghiệp lớn có thể giải quyết việc làm. Kể cả đầu tư trong nước cũng không nhiều tập đoàn lớn, công ty có quy mô sản xuất lớn để giải quyết việc làm. Doanh nghiệp bên ngoài không vào do cơ sở hạ tầng kết nối kém.

Trước xu hướng di cư khỏi vùng châu thổ này gia tăng, tại báo cáo trên, các chuyên gia khuyến nghị một số giải pháp để tiếp cận trong thời gian tới. Cụ thể, trong thập niên tới, việc di dân gia tăng là điều khó tránh khỏi nên các chính sách được thiết kế cho vùng ĐBSCL nên theo xu hướng này. Thứ hai, để có khả năng chống chịu với tác động của biến đổi khí hậu, giữ sinh kế thì việc tập trung dân cư vào các đô thị sẽ hiệu quả hơn so với việc dân cư sống phân tán. Khi đó các giải pháp cũng như việc xây dựng các hạ tầng cần thiết sẽ dễ dàng, khả thi và hiệu quả hơn. Trung ương cần dành đủ nguồn lực để xây dựng hạ tầng giao thông kết nối vùng với TP Hồ Chí Minh, nhằm thu hút đầu tư trong, ngoài nước vào ĐBSCL; từ đó tạo công ăn việc làm để người dân không đến nơi khác mưu sinh…

Đức Văn
.
.
.