Những nội dung cốt lõi trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng (tiếp theo số 3737)

Thứ Tư, 21/10/2015, 07:57
Trong Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XII của Đảng, phần quốc phòng, an ninh được trình bày thành mục riêng.

Đây là cách trình bày mới, bao gồm các nội dung như: Đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác quốc phòng, an ninh trong nhiệm kỳ qua, cả mặt ưu điểm và những hạn chế, khuyết điểm; nêu bật mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh trong tình hình mới.

Về quốc phòng, an ninh và đối ngoại

I. Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới

Trong Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XII của Đảng, phần quốc phòng, an ninh được trình bày thành mục riêng. Đây là cách trình bày mới, bao gồm các nội dung như: Đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác quốc phòng, an ninh trong nhiệm kỳ qua, cả mặt ưu điểm và những hạn chế, khuyết điểm; nêu bật mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh trong tình hình mới.

Lĩnh vực quốc phòng, an ninh cũng được trình bày trong Dự thảo Báo cáo kinh tế - xã hội.

Những nội dung cốt lõi về quốc phòng, an ninh trong Dự thảo văn kiện trình Đại hội XII của Đảng là:

1. Tình hình

Dự thảo văn kiện đã nêu: "Trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều phức tạp, chúng ta vẫn giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội". Để đạt được những thành tựu quan trọng đó, có ba vấn đề cốt yếu được khẳng định:

Thứ nhất, nhận thức về mục tiêu, yêu cầu, quan điểm, phương châm bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; về quan hệ đối tác, đối tượng có bước phát triển.

Nghị quyết Trung ương 8 khoá IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đã xác định mục tiêu bảo vệ Tổ quốc đồng bộ gồm các nội dung: Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới; bảo vệ an ninh chính trị, văn hoá; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hoà bình. Điểm nổi bật của mục tiêu và yêu cầu bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, giữ vững chủ quyền biển, đảo; ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống. Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và Nghị quyết quan trọng này của Trung ương, những năm qua, trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức về mục tiêu, yêu cầu bảo vệ Tổ quốc đã được nâng lên.

Quan điểm bảo vệ Tổ quốc đã xác định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; quan hệ gắn bó giữa mục tiêu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc với giữ vững ổn định chính trị và môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược; xây dựng sức mạnh tổng hợp của đất nước; giữ vững độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động hội nhập quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, nắm chắc tình hình, chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố gây bất ổn định, nhất là các nhân tố bên trong có thể dẫn đến những đột biến, bất lợi.

Thực hiện phương châm chỉ đạo: Kiên định về mục tiêu, nguyên tắc chiến lược; linh hoạt, mềm dẻo về sách lược. Kiên trì giải quyết tranh chấp mâu thuẫn bằng biện pháp hoà bình trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, phù hợp với luật pháp quốc tế; có đối sách phù hợp với từng đối tượng, từng tình huống.

Nhận thức về đối tác, đối tượng ngày càng sáng rõ hơn. Đảng ta xác định, những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác, bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá đất nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh. Đó là nguyên tắc, là tiêu chí để xác định đối tượng, đối tác của chúng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khi xác định đối tượng và đối tác cần hết sức linh hoạt: có trường hợp là đối tượng đấu tranh, nhưng vẫn có những mặt cần tranh thủ, hợp tác và là đối tác trong quan hệ kinh tế; có những đối tác quan hệ sâu rộng về kinh tế nhưng lại có mặt phải cảnh giác và đấu tranh. Đối tượng và đối tác có thể chuyển hoá lẫn nhau, cho nên khi xác định cần khách quan, toàn diện để có đối sách hợp lý.

Hạn chế về nhận thức: Dự thảo văn kiện đã nhấn mạnh: "Nhận thức của một số cán bộ các cấp, các ngành về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới chưa thật đầy đủ, sâu sắc", thể hiện trên các vấn đề cụ thể sau:

- Chưa nhận thức thấu đáo về sự gắn kết giữa bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ nhân dân trong thời bình; bảo vệ Tổ quốc từ xa, đấu tranh phi vũ trang; sự chuyển hoá đan xen giữa đối tác, đối tượng.

- Nhận thức về những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ, về đấu tranh trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hoá,... chưa đầy đủ.

- Nội dung của các khái niệm "bảo vệ Tổ quốc" và "bảo vệ an ninh quốc gia" chưa được hiểu một cách thấu đáo.

Thứ hai, thế trận quốc phòng toàn dân gắn kết chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân tiếp tục được củng cố.

Trên cơ sở tiềm lực quốc phòng và an ninh được tăng cường, trong những năm qua, thế trận quốc phòng toàn dân được xây dựng ngày càng hoàn chỉnh, thế trận an ninh nhân dân được củng cố thêm vững chắc. Về quốc phòng, đã triển khai xây dựng hệ thống công trình phòng thủ theo quy hoạch, tập trung cho những địa bàn chiến lược trọng điểm. Chất lượng xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố được nâng lên một bước, đủ sức tự giải quyết các tình huống quốc phòng, an ninh ở địa phương. Khả năng phòng thủ quốc gia được nâng lên tạo điều kiện cho việc tiếp tục bổ sung điều chỉnh thế trận, bố trí các lực lượng tác chiến. Tổ chức xây dựng các công trình phòng thủ hợp lý và chặt chẽ.

Việc xây dựng thế trận an ninh nhân dân có bước phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu theo hướng vững chắc. Các lực lượng bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội đã có bước phát triển mới, được triển khai trên mọi địa bàn, mọi vùng, miền của cả nước. Việc tổ chức các bộ phận chỉ huy, tác chiến, các lực lượng cơ động đã được triển khai đồng bộ. Chủ động ngăn ngừa và chuẩn bị các phương tiện, phương án đối phó với các tình huống phức tạp có thể xảy ra. Đã xây dựng, triển khai thực hiện các đề án, kế hoạch bảo đảm an ninh, trật tự ở từng địa bàn, trước hết là ở các địa bàn trọng điểm.

Sự gắn kết giữa xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và xây dựng thế trận an ninh nhân dân chặt chẽ, hiệu quả và thiết thực hơn. Đó là những thành công lớn trong việc tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân. Nhiệm vụ đặt ra trong thời gian tới là phải tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa để hướng tới mục tiêu xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân bền vững. Đó là nền quốc phòng, an ninh toàn dân, toàn diện, có đủ sức mạnh và điều kiện về vật chất, tinh thần để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc trong mọi tình huống.

Thứ ba, sức mạnh về mọi mặt của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân được tăng cường.

Coi trọng xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh về chính trị, nhất là xây dựng bản lĩnh chính trị và lòng trung thành của Quân đội với Đảng, Nhà nước, Tổ quốc và nhân dân. Thực hiện chế độ một người chỉ huy, gắn với chế độ chính uỷ, chính trị viên trong quân đội, chất lượng, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội được nâng lên. Tổ chức, biên chế quân đội được điều chỉnh hợp lý hơn. Đã từng bước bổ sung vũ khí, trang bị cho quân đội ngày càng hiện đại hơn, tăng thêm khả năng tác chiến phòng thủ biển, đảo và thềm lục địa. Các mặt công tác bảo đảm ngày càng có hiệu quả, thiết thực, chăm lo tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần của quân đội, chất lượng tổng hợp, trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức mạnh chiến đấu được nâng lên. Quân đội hoàn thành chức năng, nhiệm vụ trong mọi tình huống, làm tốt vai trò tham mưu với Đảng và Nhà nước về thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Quân đội thực sự là lực lượng trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc và trong các hoạt động cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai. Phối hợp với các cấp, các ngành, các lực lượng, chủ động ngăn ngừa, tích cực đấu tranh làm thất bại các âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, tham gia tích cực xây dựng hệ thống chính trị cơ sở và các chương trình kinh tế - xã hội của đất nước.

Lực lượng Công an nhân dân được quan tâm xây dựng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và cơ sở vật chất - kỹ thuật theo yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới, thực sự là lực lượng nòng cốt, xung kích trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia. Đã chú trọng nâng cao trình độ, đạo đức, phẩm chất đội ngũ cán bộ Công an, tích cực trong công tác tham mưu với Đảng và Nhà nước về nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Tổ chức bộ máy Công an được củng cố và phát triển phù hợp với tính chất, đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ của từng lực lượng, coi trọng tăng cường lực lượng cho cơ sở, các địa bàn chiến lược và các đơn vị chiến đấu. Trang bị kỹ thuật, nghiệp vụ được đầu tư đổi mới và ngày càng hiện đại, có lĩnh vực đi thẳng vào hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong tình hình mới. Hợp tác quốc tế trên lĩnh vực an ninh, cảnh sát, tình báo và phòng, chống tội phạm được mở rộng. Chất lượng tổng hợp và khả năng bảo đảm an ninh quốc gia được nâng cao.

Về hạn chế cần khắc phục, Dự thảo văn kiện nêu: "Kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh trên một số lĩnh vực, địa bàn có lúc, có nơi chưa chặt chẽ. Việc quán triệt và triển khai thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh của một số cấp uỷ, chính quyền có nơi, có lúc chưa kiên quyết, triệt để; còn thiếu những giải pháp mang tính chiến lược, tổng thể. Cơ chế, chính sách, pháp luật về quốc phòng, an ninh chưa hoàn thiện".

2. Phương hướng, nhiệm vụ

Dự thảo văn kiện xác định: "Mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh là: Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội".

Những nhiệm vụ chính yếu được nêu bật là:

Thứ nhất, kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hoá, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hoá, xã hội.

Đây là một trong những vấn đề cốt lõi vừa mang tính định hướng cho phát triển, vừa là nhiệm vụ, giải pháp cụ thể để bảo đảm cho việc củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Điều này xuất phát từ quan điểm sử dụng sức mạnh tổng hợp. Sức mạnh và lực lượng bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh quốc gia là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, của tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt.

Đây cũng là giải pháp thiết thực để giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Việc giải quyết mối quan hệ khăng khít này tập trung vào một số lĩnh vực cơ bản:

- Mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên lĩnh vực chính trị là xây dựng và bảo vệ chính trị và hệ thống chính trị; xây dựng và bảo vệ Cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng; xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.

- Trên lĩnh vực kinh tế là việc xây dựng và bảo vệ cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền kinh tế; xây dựng và bảo vệ cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; xây dựng và bảo vệ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữa quân sự, an ninh với kinh tế.

- Trên lĩnh vực văn hoá - xã hội là xây dựng và bảo vệ nền văn hoá xã hội chủ nghĩa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng và bảo vệ những giá trị, chuẩn mực văn hoá xã hội chủ nghĩa và đấu tranh chống lại những quan điểm tư tưởng, những biểu hiện văn hoá lạc hậu, phản động, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Đó cũng là việc xây dựng và bảo vệ cái hay, cái đẹp, kiên quyết đấu tranh với cái xấu, cái ác; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ kỷ cương phép nước.

- Trên lĩnh vực đối ngoại, cần xây dựng và bảo vệ đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, xử lý đúng đắn quan hệ đối tác, đối tượng. Trong đối ngoại quốc phòng, an ninh cần nắm vững quan điểm: Nước ta không tham gia bất cứ liên minh quân sự nào, nhưng sẵn sàng quan hệ hợp tác với các nước vì lợi ích chung của cộng đồng quốc tế và khu vực. Mục đích của quan hệ đối ngoại quốc phòng, an ninh là tăng cường hoà bình, tin cậy, đoàn kết, cùng nhau giải quyết những vấn đề có liên quan, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.

Việc kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hoá, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hoá, xã hội cần được thực hiện trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, trên tất cả mọi vùng, miền của Tổ quốc, trong đó chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Khắc phục triệt để những sơ hở, thiếu sót trong việc kết hợp kinh tế và quốc phòng, an ninh tại các địa bàn, nhất là địa bàn chiến lược.

Thứ hai, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.

Một nhiệm vụ trực tiếp của quốc phòng, an ninh là kiên quyết đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hoà bình", những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" từ bên trong và cả những tiêu cực nảy sinh bởi sự tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập, giao lưu quốc tế.

Nhiệm vụ và giải pháp cụ thể là tăng cường bảo vệ Đảng, bảo vệ an ninh chính trị nội bộ. Kết hợp chặt chẽ xây dựng Đảng với bảo vệ Đảng, tập trung củng cố, xây dựng các tổ chức Đảng từ Trung ương đến cơ sở thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đấu tranh phê phán những biểu hiện nhận thức lệch lạc, mơ hồ, mất cảnh giác. Phát hiện, tích cực phòng ngừa, ngăn chặn, không để kẻ địch thâm nhập nội bộ, mua chuộc, lôi kéo cán bộ ta. Tổ chức tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về âm mưu và hoạt động của các thế lực thù địch, nhất là thủ đoạn lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, "dân chủ", "nhân quyền" để chống phá nước ta. Đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, phá hoại trên lĩnh vực tư tưởng của các thế lực thù địch, phản động và những phần tử cơ hội chính trị.

Dự thảo văn kiện nhấn mạnh: "Để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, phải tiếp tục giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của mỗi cán bộ, đảng viên và từng người dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, lực lượng vũ trang làm nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quốc phòng, an ninh; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh".              

(còn tiếp)

.
.
.