Những nội dung cốt lõi trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng

Thứ Hai, 19/10/2015, 07:52
Nhận thức sâu sắc ý nghĩa, tầm quan trọng của việc giải quyết các vấn đề xã hội, Dự thảo văn kiện trình bày nội dung này thành một vấn đề riêng, trong đó tiếp tục hoàn thiện một bước những định hướng về thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, đồng thời trình bày rõ hơn một số định hướng về quản lý phát triển xã hội.



IV. Về quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội

Chăm lo nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là tư tưởng nhất quán của Đảng ta. Trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta nhấn mạnh: "Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách". Trong 30 năm đổi mới, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết để lãnh đạo giải quyết các vấn đề xã hội, đặc biệt chăm lo bảo đảm an sinh xã hội trong mọi hoàn cảnh, ngay cả khi đất nước đứng trước nhiều khó khăn do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính, suy giảm kinh tế toàn cầu. Đây là một thành quả quan trọng, thể hiện bản chất ưu việt của chế độ ta. Tuy nhiên, những định hướng về quản lý phát triển xã hội được nêu trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng chậm được làm rõ về mặt lý luận và thể chế hoá, cụ thể hoá về mặt nhà nước, do vậy dẫn đến những lúng túng trong quá trình thực hiện.

Nhận thức sâu sắc ý nghĩa, tầm quan trọng của việc giải quyết các vấn đề xã hội, Dự thảo văn kiện trình bày nội dung này thành một vấn đề riêng, trong đó tiếp tục hoàn thiện một bước những định hướng về thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, đồng thời trình bày rõ hơn một số định hướng về quản lý phát triển xã hội.

1. Đánh giá tình hình

Dự thảo văn kiện đã đánh giá tình hình như sau:

Về quản lý phát triển xã hội

- Những kết quả nổi bật:

Hệ thống luật pháp và chính sách được bổ sung nhằm điều tiết các quan hệ xã hội.

Chính sách dân tộc được quan tâm; tự do tôn giáo, tín ngưỡng được bảo đảm.

Các cơ quan báo chí, xuất bản làm tốt hơn nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền.

Những ưu điểm nói trên đã góp phần trực tiếp vào việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo đảm sự đồng thuận và trật tự, an toàn xã hội.

- Những hạn chế, yếu kém:

Quản lý phát triển xã hội còn nhiều hạn chế, khuyết điểm; việc giải quyết một số vấn đề xã hội chưa hiệu quả; mục tiêu xây dựng quan hệ hài hòa giữa các lĩnh vực, ngành nghề, vùng, miền chưa đạt yêu cầu.

Chưa có chính sách, giải pháp kịp thời, hiệu quả đối với vấn đề biến đổi cơ cấu, phân hoá giàu - nghèo, phân tầng xã hội, kiểm soát rủi ro, giải quyết mâu thuẫn xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, an ninh con người.

Quản lý phát triển xã hội bền vững chưa được nghiên cứu đầy đủ, hệ thống pháp luật, chính sách chưa đồng bộ, thiếu nhất quán, quản lý thiếu tính tổng thể, liên ngành, liên vùng, do vậy sự phát triển các lĩnh vực, các vùng, miền thiếu tính liên kết.

Về thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội

- Những thành tựu nổi bật:

Thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội đạt được những kết quả tích cực; an sinh xã hội được bảo đảm, phúc lợi xã hội và đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; đã hoàn thành trước thời hạn nhiều Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ.

Trong bối cảnh kinh tế có nhiều khó khăn, đã tăng thêm ngân sách nhà nước và huy động các nguồn lực để thực hiện tốt hơn các chính sách xã hội, ưu tiên vùng sâu, vùng xa, vùng bị thiên tai và đồng bào dân tộc thiểu số.

Mở rộng đối tượng thụ hưởng, nâng mức hỗ trợ và thực hiện đồng bộ nhiều chính sách đối với người có công; giảm nghèo, trợ giúp xã hội, tạo việc làm, đào tạo nghề, hỗ trợ sản xuất, hỗ trợ tín dụng cho học sinh, sinh viên nghèo đạt những kết quả tích cực: mức sống của các gia đình người có công được nâng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2%/năm, thị trường lao động có bước phát triển (5 năm đã tạo việc làm cho khoảng 7,8 triệu người).

Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân được chú trọng; chất lượng công tác y tế dự phòng, khám, chữa bệnh được nâng lên, không để dịch bệnh lớn xảy ra; tuổi thọ trung bình tăng, đạt 73,5 tuổi vào năm 2015.

Công tác chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi; bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; công tác gia đình, bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ đã đạt được kết quả tích cực.

- Những hạn chế, yếu kém:

Thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội nhiều mặt còn hạn chế; xã hội hoá còn chậm và chưa có cơ chế, chính sách đủ mạnh để huy động được nhiều nguồn lực đầu tư cho các lĩnh vực xã hội; đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn.

Thị trường lao động chưa thật thông suốt, dịch chuyển lao động còn khó khăn; tỷ trọng lao động trong nông nghiệp còn lớn, số người thiếu việc làm và việc làm không ổn định còn nhiều, nhất là ở khu vực nông thôn; một bộ phận sinh viên sau tốt nghiệp còn khó tìm được việc làm.

Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao, một số chính sách về an sinh xã hội, giảm nghèo còn chồng chéo, kém hiệu quả, chưa khuyến khích người nghèo vươn lên thoát nghèo; tỷ lệ hộ nghèo ở vùng sâu, vùng xa, nhất là trong đồng bào dân tộc thiểu số còn cao (có huyện, xã lên đến 50%); khoảng cách giàu - nghèo giữa các vùng, các nhóm dân cư còn lớn.

Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân nhiều mặt còn hạn chế; chất lượng khám, chữa bệnh, công tác y tế dự phòng chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là tuyến cơ sở; tuổi thọ bình quân tăng nhưng chất lượng cuộc sống chưa cao.

2. Về phương hướng, nhiệm vụ

Về tư tưởng chỉ đạo

- Đối với quản lý phát triển xã hội:

Đại hội XI của Đảng đã đề ra những định hướng quan trọng về quản lý phát triển xã hội. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) định hướng: Xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đoàn kết, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 nhấn mạnh: Có chính sách và các giải pháp phù hợp nhằm hạn chế phân hoá giàu - nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị. Báo cáo chính trị trình Đại hội XI xác định: Phát triển kinh tế - xã hội hài hoà giữa các vùng, đô thị và nông thôn; đấu tranh phòng, chống có hiệu quả tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông,...

Phát triển và cụ thể hoá tư tưởng Đại hội XI vào điều kiện 5 năm tới, Dự thảo văn kiện trình Đại hội XII nêu rõ: (1) Nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của phát triển xã hội bền vững và quản lý phát triển xã hội đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc; (2) Xây dựng, thực hiện các chính sách phù hợp với các giai tầng xã hội; (3) Có các giải pháp quản lý hiệu quả để giải quyết hài hoà các quan hệ xã hội, ngăn chặn, giải quyết kịp thời những bức xúc, mâu thuẫn có thể dẫn đến xung đột trong xã hội.

- Đối với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội:

Phát triển và cụ thể hoá tư tưởng thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội được thể hiện trong Văn kiện Đại hội XI, Nghị quyết Trung ương 5 khoá XI về "Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020" đã đưa ra 5 quan điểm chỉ đạo: (1) Xác định vị trí, tầm quan trọng của việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người có công, bảo đảm an sinh xã hội và trách nhiệm của Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội; (2) Những nguyên tắc trong thực hiện chính sách ưu đãi người có công và an sinh xã hội; (3) Định hướng phát triển hệ thống an sinh xã hội; (4) Xác định vai trò chủ đạo và trách nhiệm của Nhà nước trong việc thực hiện chính sách ưu đãi người có công và an sinh xã hội; (5) Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực an sinh xã hội.

Khái quát quan điểm, chủ trương của Nghị quyết Trung ương 5 khoá XI, Dự thảo văn kiện xác định: (1) Gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới; (2) Mọi người dân đều có cơ hội, điều kiện phát triển toàn diện; (3) Thực hiện tốt chính sách chăm sóc người có công trên cơ sở huy động mọi nguồn lực xã hội kết hợp với nguồn lực của Nhà nước, bảo đảm người có công có mức sống từ trung bình trở lên.

Về nhiệm vụ, giải pháp

Nhiệm vụ, giải pháp về quản lý phát triển xã hội:

Đây là vấn đề lớn và mới, cần triển khai từng bước, vững chắc. Dự thảo văn kiện xác định một số định hướng chủ yếu:

- Trong xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu hướng gia tăng phân hoá giàu - nghèo, bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội bền vững.

- Thực hiện các giải pháp, chính sách và quản lý để khắc phục từng bước sự mất cân đối về phát triển đối với từng lĩnh vực, từng vùng, bảo đảm sự hài hoà cả trong phát triển, hưởng thụ; bảo đảm cơ cấu giai tầng xã hội, dân cư, ngành nghề hợp lý.

- Kịp thời kiểm soát và xử lý các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội.

- Đẩy mạnh các giải pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội; giảm thiểu tai nạn giao thông.

Nhiệm vụ, giải pháp về thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội:

Đây là lĩnh vực đã đạt được nhiều thành quả và tích lũy được nhiều kinh nghiệm tốt, cần tiếp tục đẩy mạnh trong 5 năm tới. Dự thảo văn kiện tập trung trình bày ba nhóm vấn đề:

- Giải quyết tốt lao động, việc làm và thu nhập cho người lao động:

Tạo cơ hội để mọi người có việc làm và cải thiện thu nhập, bảo đảm tiền lương, thu nhập công bằng, đủ điều kiện sống và tái sản xuất sức lao động.

Chú trọng giải quyết việc làm cho lao động dôi dư từ khu vực nông nghiệp do việc tích tụ, tập trung ruộng đất hoặc thu hồi đất phát triển công nghiệp, đô thị và các công trình công cộng.

Khuyến khích đầu tư xã hội tạo ra nhiều việc làm, nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp.

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách về tiền lương, tiền công, khắc phục cơ bản những bất hợp lý; điều chỉnh chính sách dạy nghề, gắn đào tạo với sử dụng; điều chỉnh chính sách xuất khẩu lao động hợp lý; hoàn thiện và thực hiện chính sách bảo hộ lao động,...

- Bảo đảm an sinh xã hội:

Mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội đến mọi người dân; tạo điều kiện để trợ giúp có hiệu quả cho những người yếu thế, dễ tổn thương hoặc gặp rủi ro trong cuộc sống.

Phát triển và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp..., chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền an sinh xã hội của công dân.

Đổi mới chính sách giảm nghèo theo hướng tập trung, hiệu quả và tiếp cận phương pháp đo lường nghèo đa chiều nhằm bảo đảm an sinh xã hội cơ bản và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.

Tổ chức tốt hơn việc cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản thiết yếu; thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ nhà ở cho các đối tượng chính sách, người nghèo, nhân dân sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn; phát triển nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp, khu chế xuất và sinh viên,...

Phát triển đa dạng các hình thức từ thiện, đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia giúp đỡ những người yếu thế.

- Coi trọng chăm sóc sức khoẻ nhân dân, công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình, bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em; xây dựng gia đình hạnh phúc:

Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình, chế độ thai sản, nghỉ dưỡng, khám, chữa bệnh, bình đẳng giới; thực hiện tốt chiến lược dân số, gia đình, chương trình hành động vì trẻ em...; đầu tư nâng cao chất lượng dân số, chỉ số phát triển con người, bảo đảm cân bằng tỷ lệ giới tính khi sinh và quyền trẻ em.

Huy động các nguồn lực, tiếp tục xây dựng, phát triển hệ thống bệnh viện, trạm y tế, phòng khám bệnh, hệ thống y tế dự phòng và các dịch vụ y tế hiện đại; phát triển y học dân tộc, khuyến khích sản xuất và chữa bệnh bằng thuốc nam.

Tiếp tục bảo đảm công bằng, giảm chênh lệch mới trong tiếp cận chính sách chăm sóc sức khoẻ nhân dân giữa các địa bàn, các nhóm đối tượng; ưu tiên ngân sách nhà nước dành cho y tế đầu tư tập trung cho các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng ven biển và hải đảo.

Có lộ trình khắc phục tình trạng quá tải tại các bệnh viện lớn ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố lớn.

Tiếp tục thực hiện tốt chính sách bảo hiểm y tế cho toàn dân và từng bước đổi mới, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế.

Có chính sách hợp lý trong đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển và đãi ngộ thoả đáng đối với đội ngũ cán bộ y tế.

Tiếp tục thực hiện chiến lược phát triển con người, chính sách chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em.

Phát triển thể dục, thể thao toàn dân.

(còn tiếp)

.
.
.