Đại biểu Quốc hội - PGS.TS Trần Hoàng Ngân:

Chính phủ phải có thông điệp mạnh mẽ với các địa phương về nợ công

Chủ Nhật, 30/10/2016, 08:19
Làm thế nào tăng cường hiệu quả đầu tư công, đảm bảo cho mục tiêu phát triển nhưng vẫn đảm bảo an toàn nợ công? Báo CAND đã có cuộc trao đổi với PGS.TS Trần Hoàng Ngân – Giám đốc Học viện Cán bộ TP Hồ Chí Minh, Đại biểu Quốc hội xung quanh câu chuyện này.


- Qua nghiên cứu báo cáo của Chính phủ và báo cáo thẩm tra của Quốc hội về tình hình nợ công, ông thấy nổi lên vấn đề gì đáng quan tâm?

PGS.TS Trần Hoàng Ngân: Thứ nhất là tình hình nợ công của chúng ta hiện nay đang ở mức rất cao, cần phải có sự kiểm soát hết sức chặt chẽ, mạnh tay, trên cơ sở thực thi Luật Ngân sách; siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong thu chi ngân sách.

Nợ công đã sát trần, ở mức cao so với các nước đang phát triển trong khu vực và cũng cao so với thu nhập bình quân đầu người. Đặc biệt hơn, để bù đắp cho bội chi ngân sách, trả nợ, bình quân mỗi năm phải huy động vốn trên 400.000 tỷ đồng.

Điều này sẽ gây áp lực đến cầu tiền tệ hàng năm, nên Chính phủ lại phải cạnh tranh với doanh nghiệp – người nộp thuế cho mình, trong việc huy động vốn. Do đó, việc phân bổ vốn đầu tư, tái cơ cấu nền kinh tế phải đưa vào một nội dung tái cơ cấu trong thu chi ngân sách, tái cơ cấu trong tư duy phân bổ ngân sách, để làm sao sử dụng vốn một cách hiệu quả.

Cần phân bổ ngân sách theo trình tự ưu tiên cho những dự án cấp bách có tính lan tỏa. Ưu tiên nhất cho vấn đề an ninh – quốc phòng, mới đến y tế - giáo dục và cơ sở hạ tầng, đồng thời có chú ý đến hiệu quả kinh tế. Tôi cũng cho rằng thay vì phân bổ, chuyển vốn về địa phương thì nên thực hiện phương án cho vay và vay vốn để trả nợ, như vậy nó gắn với trách nhiệm của từng địa phương.

Đồng thời, tinh thần của Luật NSNN, Luật Đầu tư công sẽ được đưa vào cuộc sống, là người đưa ra chủ trương đầu tư sẽ phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình.

Tôi thấy Chính phủ cũng thể hiện thông điệp rất rõ. Kiềm chế bội chi theo Luật Ngân sách mới là 3,5%/năm, và nếu chúng ta thực hiện tái cơ cấu thành công, chúng ta vừa có được GDP tăng, bội chi kiểm soát được thì lúc đó tỷ lệ bội chi sẽ giảm. Vấn đề là quá trình tái cơ cấu, quá trình chi ngân sách phải hướng tới hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế.

PGS.TS Trần Hoàng Ngân.

- Ngoài báo cáo của Chính phủ về nợ công và kế hoạch vay nợ giai đoạn 2016 – 2020, Quốc hội cũng đã được trình kế hoạch phân bổ vốn, kế hoạch đầu tư công. Vậy các kế hoạch này đã đảm bảo mục tiêu như ông đề cập chưa?

PGS.TS Trần Hoàng Ngân: Thực sự tôi chưa có thời gian xem xét chi tiết các dự án đầu tư, vì Quốc hội chỉ cho ý kiến chủ trương đầu tư các dự án trọng điểm quốc gia, các dự án có vốn đầu tư trên 10.000 tỷ đồng. Dưới mức đó là do Hội đồng nhân dân các địa phương quyết định.

Tuy nhiên, tôi nghĩ cái đề án tái cơ cấu nợ công nó phải gắn với đề án tái cơ cấu nền kinh tế. Phải có sự phối hợp đồng bộ, thì lúc đó mới đạt được mục tiêu vừa hỗ trợ tăng trưởng, vừa kiểm soát ổn định kinh tế vĩ mô, vừa kiểm soát an toàn nợ công.

- Trong báo cáo của Chính phủ cũng như thẩm tra của Quốc hội đều đề cập đến vấn đề nợ đọng xây dựng cơ bản của địa phương rất lớn. Vậy làm sao để lan tỏa được thông điệp đến các địa phương về tình trạng nợ công hiện nay để họ không nghĩ đây chỉ là vấn đề của Trung ương?

PGS.TS Trần Hoàng Ngân: Điều mà tôi muốn nói là Chính phủ phải phát đi một thông điệp rằng tình hình nợ công hiện nay rất cao, đến ngưỡng rồi, nên đòi hỏi sự chia sẻ của 63 tỉnh, thành, không ỷ lại. Tình hình căng quá rồi.

Nếu cứ nói các chỉ số đều an toàn, thì tâm lý chi vẫn thoải mái. Địa phương nào cũng cho rằng dự án của mình là cần thiết. Cần thì ai cũng cần hết, nhưng trong bối cảnh hiện nay, chúng ta phải xác định thứ tự ưu tiên. Lúc căng thẳng này thì phải dành cho dự án cấp bách, chứ không phải dự án cần thiết và chú ý đến những địa phương có khả năng tạo được nguồn thu lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu, Hải Phòng, Bình Dương, Vĩnh Phúc, Đồng Nai.

Với 7 địa phương có nguồn thu lớn đó, chúng ta phải liên tục quan tâm và tạo cho nó một cơ chế, để tạo được một động lực tạo nguồn thu. Nếu thu không đạt, mà chi luôn đạt thì nó sẽ vượt ngưỡng. Mà chúng ta đừng để phải vượt trần nợ công theo Nghị quyết của Quốc hội thì lúc đó Chính phủ sẽ rất khó điều hành, vì chính Chính phủ còn vi phạm.

Tôi thấy Chính phủ cũng đã thể hiện quyết tâm là giữ trần nợ công, nhưng quyết tâm đó chưa đủ mà phải có sự đồng thuận ở 63 tỉnh, thành.

Trong báo cáo, Chính phủ cũng đã nói rõ nợ công hiện nay là sát ngưỡng rồi: 64,98%, chỉ còn 0,02% là chạm trần. Như vậy, phải đi 2 con đường: phải thúc đẩy GDP, tức là làm mẫu số phải tăng, mà tử số là bội chi phải kéo lại để kéo giảm tỷ lệ bội chi.

Nhưng cái quan trọng không phải là con số 65%. Cái quan trọng là số chúng ta phải trả nợ hàng năm đến hạn, nợ gốc là 144.000 tỷ đồng, rồi riêng tiền lãi mỗi năm tới là trên 95.000 tỷ đồng.

Bội chi ở mức 3,5% GDP, thấp hơn mức 5,5% - 6% trước đây, vì theo Luật Ngân sách mới nợ gốc để ở ngoài khoản chi. Nếu tính cả nợ gốc, bội chi còn lớn hơn. Do đó, tôi nghĩ rằng Chính phủ phải thể hiện thông điệp rất rõ.

- Nhiều chuyên gia đánh giá báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính Ngân sách của Quốc hội đã đề cập rất thẳng thắn vào vấn đề nợ công, cho rằng có biểu hiện mất an toàn trong dài hạn. Ông có đánh giá thế nào về nhận định này?

PGS.TS Trần Hoàng Ngân: Tôi thấy Ủy ban Tài chính Ngân sách đã đụng đến vấn đề cốt lõi, đã cảnh báo là số phải trả hàng năm của Chính phủ trên tổng số thu đã ở mức 25% - tức là mức các quốc gia cần cảnh báo.

Rồi số vốn mình phải huy động hàng năm cao: trong giai đoạn 2011 – 2015 trái phiếu phát hành hàng năm chỉ khoảng 185.000 tỷ đồng thôi, nhưng giai đoạn 2016 – 2020 trái phiếu phát hành 230.000 tỷ đồng rồi. Như vậy áp lực cạnh tranh vốn với DN làm giảm dư địa cho phát triển, cũng như khó cho việc giảm lãi suất. Các nước có khi không cần biết đến trần nợ công, người ta quan tâm là trong mức tăng tín dụng hàng năm đó thì ngân sách huy động bao nhiêu.

Việc huy động đó có đè nặng lên lãi suất trên thị trường hay không, bởi nếu vậy thì DN không làm ăn được, không làm ăn được thì không đóng thuế được, càng ngày càng “vỡ trận”. Do đó, khoản phải huy động hàng năm mà cao, thì sẽ gây khó lên ngân sách, vì DN sẽ gặp khó do phải cạnh tranh về mức lãi trên thị trường. Phải tìm được mức nào gọi là mức vừa phải.

- Quốc hội kỳ này sẽ quyết định rất nhiều vấn đề quan trọng như phân bổ vốn trung hạn, nợ công trung hạn, đầu tư công trung hạn. Với tư cách một người sẽ nhấn nút thông qua các kế hoạch này, ông đòi hỏi điều gì ở những phương án Chính phủ trình?

PSG.TS Trần Hoàng Ngân: Số phân bổ ngân sách đầu tư trong 5 năm khoảng 2 triệu tỷ đồng, trong đó hơn 800.000 tỷ đồng ngân sách địa phương thì để UBND tỉnh, thành phố quyết định. Còn hơn 1,2 triệu tỷ đồng ngân sách trung ương thì các ĐBQH phải quyết. Số tiền này sẽ dành 1 phần cho các cơ quan trung ương, bộ, ngành, còn lại 63 tỉnh, thành là 435.000 tỷ đồng.

GDP thời gian qua được quyết định 60% bởi vốn, thời gian tới, dù có đổi mới thì vốn cũng quyết định tới 50%, nhưng vốn này được phân bổ thế nào, có đảm bảo tiêu chí hiệu quả về xã hội, đảm bảo ưu tiên cho an ninh, quốc phòng cùng với đảm bảo tái đầu tư cho khu vực đang hiệu quả không...

Cho nên tôi rất quan tâm tới việc phân bổ vốn đầu tư. Chính kiến của tôi sẽ phát biểu tại phiên thảo luận trên nghị trường tới đây. Quốc hội sẽ có một ngày thảo luận về vấn đề này, để cùng nhau mổ xẻ những vấn đề, những áp lực với nợ công của chúng ta hiện nay. Trong việc phân bổ vốn đầu tư phải làm rõ các tiêu chí. Tôi nghĩ qua thảo luận trên nghị trường thì cũng sẽ giúp Quốc hội, Chính phủ cân nhắc hết các ý kiến đại biểu để đưa tới quyết định cuối cùng.

Về phía đại biểu cũng phải thể hiện chính kiến của mình để phân bố vốn đầu tư đem lại hiệu quả cho nền kinh tế, giảm nợ công, nợ Chính phủ. Phải cho các đại biểu thấy rằng việc phân bổ đó là hợp lý và hiệu quả. Khi nào tôi cảm nhận sự hợp lý và tính hiệu quả thực sự có trong việc phân bổ đó, thì tôi sẵn sàng thông qua.

Khi so sánh nợ công của chúng ta với nợ Chính phủ ở các nước (các nước thường dùng khái niệm này họ không có vay bảo lãnh Chính phủ) như  Malaysia là 54%, nhưng GDP bình quân đầu người của họ là 9.500 USD. Hay so sánh với Singapore, tại sao nợ Chính phủ của họ tới 104% GDP? nhưng GDP đầu người của họ là 52.000 USD/người/năm. Chúng ta có 2.100 USD/người.

So sánh với Thái Lan mình thấy đau hơn. Nợ Chính phủ của họ chỉ có 45% GDP thôi, nhưng GDP đầu người của họ là 5.700 USD/người. Nợ họ thấp hơn, mà GDP cao hơn gần 3 lần mình, thì rõ ràng là hiệu quả sử dụng vốn của mình thấp hơn so với các nước. Do đó, trong đề án lần này, tái cơ cấu trong phân bổ vốn là một vấn đề mà chúng tôi cũng rất chờ đợi sự chia sẻ của các địa phương.

Vũ Hân (thực hiện)
.
.
.