Sự ổn định chính trị và kinh tế của Việt Nam hấp dẫn nhà đầu tư Nhật Bản

Thứ Sáu, 17/11/2017, 08:05
Ông Shosuke Mori, Phó Tổng Giám đốc Bộ phận ngân hàng quốc tế, Ngân hàng Sumitomo Mitsui nêu 6 lý do khiến nhà đầu tư Nhật Bản đổ vốn vào Việt Nam. 

Tại Diễn đàn “Hà Nội – Điểm nhấn trong triển vọng tăng trưởng của Việt Nam, xây dựng chiến lược cho giai đoạn tiếp theo” do Báo Nikkei (Nhật Bản) tổ chức ngày 15-11 tại Hà Nội, ông Shosuke Mori, Phó Tổng Giám đốc Bộ phận ngân hàng quốc tế, Ngân hàng Sumitomo Mitsui nêu 6 lý do khiến nhà đầu tư Nhật Bản đổ vốn vào Việt Nam. 

Đó là lợi thế về mặt nhân khẩu học; sự chăm chỉ, cần cù của người lao động; vị thế địa chính trị gần Trung Quốc và Thái Lan; môi trường kinh doanh ngày càng được cải thiện và thân thiện hơn với môi trường; sự tương đồng về văn hoá giữa hai nước và đặc biệt là môi trường chính trị ổn định. 

“Sự ổn định kinh tế và chính trị của Việt Nam là yếu tố hấp dẫn nhà đầu tư Nhật Bản hàng đầu”, ông Mori nói. 

Minh chứng rõ nét là số lượng doanh nghiệp Nhật Bản hiện diện tại Việt Nam tăng mạnh trong giai đoạn từ 2005-2016, đặc biệt là từ năm 2007 kể từ sau khi Việt Nam tham gia Tổ chức thương mại thế giới. 

Kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục tăng tốc, là điểm đến đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài.

Từ 194 doanh nghiệp vào năm 2007 đã lên đến con số 1.716 doanh nghiệp vào năm 2016, theo đó số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng tăng lên mức gần 1.700 tỷ JPY, cao hơn con số 820 tỷ JPY năm 2007.

Liên quan tới vấn đề cải cách DNNN, ông Masanobu Nakinishi, Giám đốc quốc gia Ngân hàng Sumitomo Mitsui tại Việt Nam cho rằng Chính phủ đã đưa ra nhiều thông điệp về các chương trình cải cách DNNN nhưng nhà đầu tư nước ngoài đều bị khống chế tỷ lệ mua cổ phần, điều này làm cản trở việc tiếp cận vốn, công nghệ, bí quyết kỹ thuật… từ những nhà đầu tư ngoại. 

“Qua trao đổi với nhiều doanh nghiệp Việt Nam, tôi nhận thấy rằng, các doanh nghiệp thường kỳ vọng vào việc được nhận chuyển giao công nghệ cao từ phía đối tác nước ngoài, trong đó có Nhật Bản. Nhưng thực tế, khi nhà đầu tư ngoại chỉ nắm giữ số lượng hạn chế cổ phần của doanh nghiệp, họ khá ngần ngại chuyển giao toàn bộ công nghệ, bí quyết kỹ thuật cho doanh nghiệp, họ thường chỉ chuyển giao một phần”, ông Nakinishi cho hay. 

Để giải quyết trở ngại này, tìm được tiếng nói chung giữa hai bên, ông Nakinishi đề xuất Chính phủ Việt Nam cân nhắc tới việc tăng tỷ lệ cho phép nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần tại các DNNN trong những ngành hàng tiêu dùng bên cạnh việc đưa ra những hướng dẫn cụ thể cho phép nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực quan trọng như năng lượng, dầu khí…

Ngoài ra, cũng theo ông Nakinishi, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới, Việt Nam phải có sự chuẩn bị về cơ sở hạ tầng. Hiện Việt Nam có chủ trương đầu tư theo hình thức hợp tác công tư (PPP) nhưng những thay đổi trong bảo lãnh tỷ giá và bảo lãnh vốn vay đang khiến nhà đầu tư nước ngoài trở nên “dè dặt” hơn. 

Ông nói việc giảm dần tỷ lệ bảo lãnh tỷ giá xuống còn 70% trong bối cảnh tỷ giá ổn định như hiện nay có thể không phải là điều đáng suy nghĩ nhưng 10 năm tới, không ai chắc chắn về sự ổn định này.  

Tương tự, Chính phủ cũng đang dừng lại việc bảo lãnh vốn vay đối với những dự án đầu tư cơ sở hạ tầng có tính chất quan trọng bởi nếu tiếp tục cam kết bảo lãnh sẽ dẫn tới chạm trần nợ công.

Ông Nguyễn Duy Hưng - Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Chứng khoán Sài Gòn (SSI) cho rằng, Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào và trẻ, đây là nền tảng để các doanh nghiệp nước ngoài đến Việt Nam hợp tác cùng phát triển. 

Chính phủ Việt Nam đã có những cải cách quan trọng; trong đó đặc biệt chú trọng đến những chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Nhiều công ty, tập đoàn lớn của nhà nước đã và sắp thoái vốn như Công ty cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk), Tổng Công ty cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco), Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex),... là những điểm hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài. Theo ông Hưng, mặt bằng kinh doanh của Việt Nam và mặt bằng kinh doanh của các nước đã rất gần nhau.

Phó Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước Phạm Hồng Sơn cho biết, sau 17 năm hình thành và phát triển, thị trường chứng khoán Việt Nam được biết đến là một thị trường có tốc độ phát triển nhanh nhất về quy mô và thanh khoản trong khu vực ASEAN và Đông Á. 

Trong 10 năm qua, quy mô thị trường cổ phiếu đến thời điểm hiện tại là hơn 63% GDP. Đã có 700 doanh nghiệp niêm yết, 640 doanh nghiệp đăng ký giao dịch; trong đó có 23 doanh nghiệp có giá trị vốn hóa trên 1 tỷ USD. Trong hơn 1,8 triệu tài khoản giao dịch đã được mở có khoảng 23 nghìn tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài. 

Theo ông Sơn, vốn hóa của thị trường cổ phiếu và thị trường trái phiếu đã đạt mức trên 100% GDP, so với mức 130% GDP của dư nợ tín dụng ở thời điểm hiện tại, cho thấy thị trường tài chính-tiền tệ của Việt Nam đang từng bước đạt được cơ cấu cân bằng, vững chắc hơn so với trước đây.

Lưu Hiệp
.
.
.