Mã vùng nông sản: Bị mạo danh vì quản lý lỏng lẻo

Thứ Hai, 21/09/2020, 08:48
Cục Bảo vệ thực vật (BVTV - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho hay, việc cấp mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói hiện nay đang được triển khai thực hiện theo quy định của nước nhập khẩu. Chỉ có nông sản được sản xuất từ vùng trồng, cơ sở đóng gói mới được phép xuất khẩu sang các nước như Mỹ, Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc.


Xấp xỉ 1.000 mã số vùng trồng đã được cấp

Theo Cục BVTV, hiện nay, Việt Nam đã đưa quy định về cấp và quản lý mã số vùng trồng vào Luật Trồng trọt (Điều 64). Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) được giao hướng dẫn về việc cấp mã số vùng trồng này. Bộ NN&PTNT đã giao cho Cục Bảo vệ thực vật xây dựng Tiêu chuẩn Việt Nam về viêc thiết lập và giám sát vùng trồng phục vụ xuất khẩu, dự kiến sẽ trình ban hành trong năm 2020.

Đến nay, đối với các thị trường “khó tính”, đã cấp được 998 mã số vùng trồng, trong đó các mã số được cấp nhiều nhất là cho thị trường Hoa Kỳ (471), tiếp đó là Úc và New Zealand (393), Hàn Quốc (199) và cuối cùng là các thị trường Thái Lan, Nhật Bản, EU. Ngoài ra, cũng đã cấp 47 mã số cơ sở đóng gói cho nông sản xuất khẩu sang các thị trường này.

Lô cà phê xuất khẩu sang EU theo Hiệp định EVFTA đã được xuất đi vào sáng 16/9.

Đối với thị trường Trung Quốc, tính đến tháng 8/2020 đã có 47 tỉnh gửi văn bản đề nghị và đã cấp được 1.735 mã số vùng trồng với diện tích trên 180.000ha cho 9 loại quả tươi (thanh long, xoài, nhãn, vải, chôm chôm, dưa hấu, chuối, mít và măng cụt) đã được xuất khẩu chính ngạch và 1.832 mã số cơ sở đóng gói. Trong số này, xoài, nhãn, thanh long là các sản phẩm có nhiều mã số vùng trồng được cấp nhất. Riêng đối với khu vực đồng bằng sông Cửu Long hiện đã cấp 628 mã vùng trồng và 924 cơ sở đóng gói phục xuất khẩu đi thị trường Trung Quốc.

Các vùng trồng, cơ sở đóng gói đã cấp để xuất khẩu đi các thị trường “khó tính” đang được quản lý, giám sát rất chặt chẽ. Trường hợp phát hiện các mã số này không đạt yêu cầu quy định của nước nhập khẩu sẽ yêu cầu phải khắc phục hoặc tạm ngừng không đồng ý cho sử dụng mã số đó. Cơ quan kiểm dịch thực vật của nước nhập khẩu cũng sẽ định kỳ hoặc đột xuất tổ chức kiểm tra các vùng trồng, cơ sở đóng gói đã được cấp mã số ở Việt Nam.

Cục BVTV nhận định, trong thời gian qua, việc kiểm tra và giám sát các vùng trồng, cơ sở đóng gói tại các địa phương được thực hiện về cơ bản đáp ứng được yêu cầu. Tuy nhiên, tháng 6/2020, Tổng cục Hải quan Trung Quốc thông báo cho cơ quan Kiểm dịch thực vật Việt Nam về 220 lô xoài (khoảng 3.300 tấn trong tổng số 750.000 tấn đã xuất khẩu sang Trung Quốc trong năm 2019 và 2020, chiếm khoảng 0,43% tổng lượng xuất khẩu) vi phạm quy định về kiểm dịch thực vật với nhiều nguyên nhân khác nhau.

Phía Trung Quốc yêu cầu tạm ngưng xuất khẩu xoài từ 12 vùng trồng và 18 cơ sở đóng gói có liên quan để phối hợp tiến hành điều tra nguyên nhân, đề xuất biện pháp khắc phục và nâng cao công tác quản lý, trong đó nhiều nhất là Tiền Giang (có 15 mã số nhà đóng gói và vùng trồng), tiếp đó là An Giang (7 mã) và thấp nhất là Vĩnh Long (2 mã).

Quản lý mã số vùng trồng còn lỏng lẻo

Cục BVTV cho hay, dù tỷ lệ số mã số cơ sở đóng gói và vùng trồng đang bị phía Trung Quốc tạm ngưng xuất khẩu là không lớn, nhưng đây là một tín hiệu cho thấy công tác kiểm tra, giám sát và quản lý mã số vùng trồng đối với các nông sản xuất khẩu cần phải được rà soát, chấn chỉnh kịp thời.

Nếu không kiểm tra, giám sát tốt các vùng trồng, cơ sở đóng gói đã được cấp mã số sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế, cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích kinh tế của người nông dân.

Thậm chí, nguy cơ mất thị trường, không thể xuất khẩu được nữa là rất cao nếu thường xuyên có các vùng trồng, cơ sở đóng gói vi phạm quy định của nước nhập khẩu.

Qua quá trình kiểm tra, rà soát của Cục BVTV phát hiện vẫn còn một số vấn đề tồn tại liên quan đến việc quản lý, giám sát mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói cần phải được chấn chỉnh để đảm bảo chất lượng và uy tín của hàng nông sản xuất khẩu.

Như việc quản lý mã số tại các một số địa phương vẫn còn lỏng lẻo, chưa được chú trọng, chưa xây dựng kế hoạch và thực hiện công tác kiểm tra, giám sát vùng trồng, cơ sở đóng gói sau khi được cấp mã số. Sự liên kết giữa vùng trồng, cơ sở đóng gói được cấp mã với các cơ quản lý ở địa phương, Trung ương để kiểm soát hàng hóa xuất khẩu còn chưa được chặt chẽ.

Trong khi đó, đã xuất hiện tình trạng các doanh nghiệp sử dụng không đúng mã số, mạo danh mã số của nhau để xuất khẩu. Điều này không những gây ảnh hưởng đến uy tín hàng trái cây Việt Nam xuất khẩu, mà còn trực tiếp ảnh hưởng đến các đơn vị chủ sở hữu mã số.

Theo Cục BVTV, thời gian qua, một số địa phương còn chưa dành sự quan tâm đúng mức đối với công tác kiểm tra, giám sát và quản lý vùng trồng. Cá biệt có những tỉnh sau khi đề nghị cấp mã số xong không còn quan tâm đến thực tế đang diễn ra thế nào ở các vùng được cấp mã số này.

Do vậy, Cục BVTV kiến nghị Bộ NN&PTNT chỉ đạo hình thành liên kết chuỗi sản phẩm từ vùng trồng, nhà đóng gói, nhà xuất khẩu, địa phương và cơ quan quản lý nhà nước để ngăn chặn tình trạng đưa sản phẩm từ ngoài vùng trồng hoặc cơ sở đóng gói chưa có mã số vùng trồng vào chuỗi sản phẩm và kiểm soát khẩu xuất khẩu.

Ngọc Yến
.
.
.