Vì sao không nên đưa quyền im lặng vào luật?

Thứ Hai, 08/12/2014, 09:51
Đã có ý kiến cho rằng, nên quy định quyền im lặng vào Bộ luật Tố tụng hình sự với lý do thời gian qua xảy ra một số vụ án, người bị bắt, bị tạm giữ bị bức cung, dùng nhục hình và sự việc có thể không xảy ra nếu khi được triệu tập đến cơ quan điều tra, họ có quyền im lặng cho đến khi luật sư có mặt hoặc việc hỏi cung chỉ được diễn ra khi có mặt luật sư. Tuy nhiên, sẽ là không thuyết phục nếu quy định quyền im lặng vào Bộ luật Tố tụng hình sự bởi những lý do sau đây:

Một là, nếu quyền im lặng được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự thì được áp dụng như thế nào và trong giai đoạn nào của quá trình tố tụng. Theo đó, quyền im lặng chỉ được áp dụng từ khi một người bị bắt cho đến khi được gặp luật sư hay quyền im lặng được áp dụng trong suốt quá trình tố tụng (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không chỉ im lặng trong suốt quá trình điều tra, mà đến giai đoạn xét xử, tại phiên tòa đều có quyền giữ im lặng, không cần biết có hay không có sự hiện diện của luật sư, không cần thiết phải nói bất cứ điều gì vào bất cứ thời điểm nào hoặc trả lời bất cứ câu hỏi nào).

Nếu chọn cách thứ nhất, quyền im lặng chỉ được áp dụng từ khi bị bắt cho đến khi gặp luật sư thì khi chưa có sự hiện diện của luật sư, người bị bắt, bị tạm giữ sẽ không khai bất cứ điều gì có liên quan đến vụ việc, có luật sư mới khai, không có sẽ không khai. Vậy khoảng thời gian chờ đợi sự hiện diện của luật sư có được giới hạn không và nếu có thì sẽ được giới hạn trong thời gian bao lâu, trong thời gian chờ đợi luật sư, cơ quan tiến hành tố tụng có được khởi tố vụ án, khởi tố bị can và áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác hay không. Chưa kể, không phải trường hợp nào cũng thuê luật sư hoặc luật sư đến ngay sau khi thân chủ của họ bị bắt, bị tạm giữ như ở một số nước trên thế giới, trong trường hợp người bị bắt không thuê luật sư thì giải quyết như thế nào. 

Nếu chọn cách thứ hai thì việc im lặng trong suốt quá trình tố tụng có bị coi là chống đối, là không hợp tác với cơ quan thực thi pháp luật và trong nhiều trường hợp có thể gây ra những cản trở nhất định cho cơ quan tiến hành tố tụng trong việc thu thập thông tin, củng cố chứng cứ, hoàn thiện hồ sơ vụ án. Chưa kể, với vụ án có nhiều đồng phạm, nhiều tình tiết liên quan đến nhiều người, nhiều vụ thì việc im lặng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể sẽ gây trở ngại trong quá trình điều tra, phá án, thậm chí có thể để lọt tội phạm.

Chính sách pháp luật của nhà nước ta luôn khoan hồng với những người thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây cũng là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi lượng hình. Nếu quyền im lặng được áp dụng trong suốt quá trình tố tụng thì sẽ là bất lợi không chỉ đối với người bị bắt, tạm giữ, bị can, bị cáo mà còn ảnh hưởng đến quá trình điều tra, thu thập chứng cứ, dễ bỏ lọt tội phạm, nhất là những vụ án có tình tiết phức tạp, có đồng phạm…

Hai là, Bộ luật Tố tụng hình sự tại điểm c, khoản 2 Điều 48 và điểm c, khoản 2, Điều 49 đã quy định người bị tạm giữ, bị can có quyền “trình bày lời khai”. Thực chất, đây chính là một phần của quyền im lặng vì đã là quyền thì họ có thể trình bày lời khai hoặc không thực hiện việc trình bày lời khai. Việc họ không trình bày lời khai hoàn toàn thông qua việc họ im lặng trước cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, không cần thiết quy định “quyền im lặng” của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nữa. Thực tế họ có thể im lặng (nếu họ muốn), cơ quan tiến hành tố tụng không có quyền bắt họ phải khai báo bằng các biện pháp không hợp pháp.

Ba là, nếu nói rằng ghi nhận quyền im lặng để tránh oan sai, chống bức cung, nhục hình là không thuyết phục bởi lẽ, dù quyền im lặng được ghi nhận thì cũng chỉ là một trong những quyền mà người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo có được, bản thân quyền im lặng không phải là công cụ để con người chống lại một sự vi phạm. Bộ luật Hình sự đã dành riêng một số điều luật để xử lý đối với hành vi bức cung, dùng nhục hình, đó là các Điều 298 (tội dùng nhục hình), Điều 299 (tội bức cung). Việc một số người có hành vi bức cung, dùng nhục hình đối với người bị bắt, người bị tạm giữ chỉ là những“con sâu làm rầu nồi canh”, là hành vi của một số người cố tình vi phạm, biết luật pháp đã quy định rõ là cấm bức cung, dùng nhục hình, nhưng vẫn vi phạm thì đã có chế tài xử lý theo quy định. Không thể quy chụp việc không quy định quyền im lặng là nguyên nhân dẫn đến oan sai, bức cung, nhục hình.

Bốn là, tỷ lệ luật sư trên tổng dân số ở nước ta hiện nay rất thấp, khoảng 1/14.000 dân và chỉ bằng 1/10 so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Theo một thống kê, cả nước có 62 đoàn luật sư với hơn 6.250 luật sư và hơn 3.000 người tập sự hành nghề luật sư đang hoạt động trong 2.750 tổ chức hành nghề luật sư. Nếu đối chiếu với khoảng 90 triệu dân mà chỉ có 6.250 luật sư hành nghề là quá ít - bình quân 1 luật sư phải phục vụ hơn 14.000 dân và tập trung chủ yếu ở hai thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh… Nếu căn cứ vào thực trạng này mà quy định quyền im lặng cho đến khi luật sư có mặt thì không biết phải giải quyết thế nào cho đủ số lượng luật sư đáp ứng cho tất cả những người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo để họ thực hiện quyền của mình khi có nhu cầu.

Trong đấu tranh phòng chống tội phạm, bao giờ cũng phải dung hòa giữa lợi ích nhà nước với lợi ích cá nhân. Nếu mở rộng quá nhiều quyền cho cá nhân sẽ dẫn tới quá trớn, tùy tiện thậm chí chống đối, không hợp tác. Trong điều kiện dân trí, nhận thức và truyền thống pháp lý của nước ta cùng với một đội ngũ luật sư còn khiêm tốn thì việc quy định thêm quyền nói chung và quyền im lặng nói riêng cũng cần cân nhắc và có lộ trình phù hợp, theo từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế xã hội. Trước mắt, các cơ quan tiến hành tố tụng phải giải thích với người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo về quyền trình bày lời khai một cách trung thực, thành khẩn và quyền tiếp cận, nhờ luật sư bào chữa hoặc trợ giúp pháp lý để đảm bảo quyền con người nói chung và quyền công dân nói riêng.

Trần Dương Công
.
.
.