Tránh chồng chéo chức năng, nhiệm vụ trong bảo vệ biển đảo

Thứ Bảy, 09/06/2018, 07:34
Một trong những nội dung nhiều đại biểu quan tâm thảo luận, tranh luận là xác định lực lượng Cảnh sát biển có phải là lực lượng vũ trang hay không.


Sáng 8-6, cho ý kiến vào dự án Luật Cảnh sát biển Việt Nam, đa số đại biểu Quốc hội tán thành với việc ban hành luật này nhằm hoàn thiện pháp luật về Cảnh sát biển Việt Nam, góp phần tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh và xây dựng các lực lượng trên biển; đồng thời đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên biển, bảo vệ an ninh, trật tự an toàn, môi trường biển, bảo đảm việc chấp hành pháp luật trên biển và yêu cầu hội nhập quốc tế.

Một trong những nội dung nhiều đại biểu quan tâm thảo luận, tranh luận là xác định lực lượng Cảnh sát biển có phải là lực lượng vũ trang hay không.

Theo đại biểu Trần Thị Dung (Điện Biên), nếu quy định Cảnh sát biển là lực lượng vũ trang thì mâu thuẫn ngay với Luật Quốc phòng vừa được Quốc hội thông qua. “Quy định thế nào cho phù hợp với quy định pháp lý, với thực tế và tạo điều kiện cho lực lượng này. Theo tôi, nên quy định theo hướng Cảnh sát biển một bộ phận cấu thành của quân đội, thuộc Bộ Quốc phòng”, đại biểu Dung đề xuất.

Đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Quốc phòng (sửa đổi).  Ảnh: TTXVN

Góp ý vào nội dung này, đại biểu Phạm Đình Cúc (Bà Rịa - Vũng Tàu) cho rằng, quy định Cảnh sát biển Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự quản lý thống nhất của Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trực tiếp quản lý và điều hành (Điều 5) sẽ dễ gây ngộ nhận Cảnh sát biển là một lực lượng nằm ngoài Bộ Quốc phòng, và về nguyên tắc tổ chức, Cảnh sát biển được hiểu tương đương với Bộ Quốc phòng và Bộ Công an, mà thực chất, Cảnh sát biển chỉ là một lực lượng nhỏ trong lực lượng vũ trang.

“Cần phải xác định rõ Cảnh sát biển là lực lượng tương đương với cấp nào trong Bộ Quốc phòng. Đồng thời, viêc quy định như dự thảo Luật chưa làm rõ được vai trò lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Quân ủy Trung ương và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng”, đại biểu Cúc cho đề nghị.

Tranh luận về quan điểm này, đại biểu Nguyễn Phương Tuấn (Ninh Bình) cho rằng, theo Luật Quốc phòng vừa được thông qua có quy định lực lượng vũ trang nhân dân gồm 3 yếu tố cấu thành gồm Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và lực lượng dân quân tự vệ.

Nếu ghi vào trong luật, lực lượng Cảnh sát biển thuộc lực lượng vũ trang nhân dân hay là lực lượng vũ trang nhân dân là vấn đề rất nhạy cảm, vì hiện nay trên thế giới có rất nhiều nước có lực lượng giống chúng ta, họ có những tên gọi khác nhau nhưng không bao giờ đặt thuộc Bộ Quốc phòng.

Nếu chúng ta đưa lực lượng này vào lực lượng vũ trang thì vô hình trung là sử dụng quân đội để xử lý những xung đột trên biển về mặt dân sự.

Tranh luận với đại biểu Nguyễn Phương Tuấn, đại biểu Nguyễn Minh Hoàng (thành phố Hồ Chí Minh) phân tích, Luật An ninh quốc gia 2004 quy định Cảnh sát biển là cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia; cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia là cơ quan chỉ đạo và chỉ huy đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, do vậy, Cảnh sát biển Việt Nam là một trong những cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia thuộc lực lượng vũ trang, mà cụ thể là tác chiến trên biển.

Đại biểu Tuấn dẫn ví dụ lực lượng Cảnh sát biển của Nhật Bản, và cho rằng “chúng ta làm điều này không ngại gì với quốc tế”.

Liên quan đến vấn đề này, Phó Chủ tịch Quốc hội Đỗ Bá Tỵ cho rằng, Cảnh sát biển cũng như Biên phòng trên đất liền cũng thực hiện nhiệm vụ như lực lượng chấp pháp trên đất liền. Về công tác phòng thủ đất nước khi có chiến tranh xảy ra thì lực lượng Cảnh sát biển, lực lượng Biên phòng cũng là lực lượng đầu tiên.

“Biên phòng từ xưa đến nay đã là lực lượng vũ trang rồi, Cảnh sát biển cũng tính là lực lượng vũ trang. Tùy theo mỗi nước, mình không thể áp đặt nước khác để áp dụng vào Việt Nam được”, Phó Chủ tịch Quốc hội nêu quan điểm.

Về chức năng, nhiệm vụ của Cảnh sát biển, có ý kiến đề nghị cần phân biệt rõ nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát biển với nhiệm vụ của các lực lượng khác trên biển, tránh chồng chéo, xung đột, mâu thuẫn về nhiệm vụ, gây khoảng trống về trách nhiệm trên biển.

Dự thảo Luật Cảnh sát biển gồm 8 chương, 49 điều, quy định về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức, hoạt động và phối hợp của Cảnh sát biển Việt Nam; quản lý nhà nước, trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương, tổ chức liên quan; đảm bảo hoạt động và chế độ, chính sách đối với Cảnh sát biển Việt Nam...

Phương Thuỷ
.
.
.