Hiến pháp năm 2013 đi vào cuộc sống

Các quy định về chế độ chính trị trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Thứ Hai, 21/04/2014, 11:18
Chế độ chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự tồn tại, phát triển của một xã hội; xác định phương thức, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị quốc gia, được cấu thành bởi các yếu tố chính trị, kinh tế - xã hội, tư tưởng, văn hóa, pháp luật, hành chính để điều hành mọi mặt đời sống xã hội.

Trong các hiến pháp của Nhà nước ta qua các thời kỳ và trong hiến pháp của nhiều nước, các điều khoản về chế độ chính trị quy định về tính chất của quyền lực, sự phân bố, tổ chức và mối quan hệ giữa các cơ quan quyền lực, về quan hệ giữa Nhà nước với công dân, tổ chức chính trị, các tổ chức xã hội, giữa các giai cấp và tầng lớp, giữa các dân tộc trong nước và thế giới.

Do tính chất và tầm quan trọng đặc biệt của chế độ chính trị đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội nên trong tất cả các bản Hiến pháp của Nhà nước ta và Hiến pháp nhiều nước, chế độ chính trị được ghi nhận trong chương đầu tiên với vị trí là chế độ pháp lý cơ bản, chi phối nội dung của các quy định khác trong Hiến pháp. Theo đó, khi nghiên cứu về Hiến pháp của một quốc gia, nội dung đầu tiên thường được quan tâm, đề cập đến đó là các quy định về chế độ chính trị. Các quy định về chế độ chính trị trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Hiến pháp năm 2013) được quy định tại Chương I.

Tên Chương này được viết gọn lại trên cơ sở tên Chương I của Hiến pháp năm 1992. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Chế độ chính trị thành “Chế độ chính trị” và đưa các quy định về quốc kỳ, quốc huy, quốc ca, thủ đô, ngày Quốc khánh của Chương XI Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001 – gọi chung là Hiến pháp năm 1992) vào Chương I vì đây là những nội dung quan trọng gắn liền với chế độ chính trị của quốc gia. Nội dung các điều, khoản của Chương I đã thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), các văn kiện của Đảng và các nghị quyết, kết luận của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị về mục đích, yêu cầu và những quan điểm cơ bản, định hướng lớn của việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và kế thừa những nội dung còn phù hợp của Hiến pháp năm 1992, cụ thể là:

- Tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của thể chế chính trị và bộ máy nhà nước đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 1992. Đó là, Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

- Khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam theo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

- Tiếp tục khẳng định chế độ dân chủ ở nước ta là dân chủ xã hội chủ nghĩa. Bảo đảm để dân chủ được thực hiện trong cuộc sống. Khẳng định nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.

- Khẳng định và thể hiện rõ tư tưởng phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, coi đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực, nguồn sức mạnh to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giữ quy định về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Công đoàn như Hiến pháp hiện hành; đồng thời bổ sung, làm rõ vai trò của Mặt trận, Công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội trong việc động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình...

Cụ thể hóa các quy định, định hướng nêu trên Chương I gồm 13 điều, từ Điều 1 đến Điều 13, tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của chế độ chính trị đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 1992; đồng thời quy định để làm rõ hơn, đầy đủ hơn và sâu sắc hơn các nội dung: Quyền dân tộc; bản chất và nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước; trách nhiệm của Nhà nước đối với nhân dân; vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; chính sách đại đoàn kết dân tộc; nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước; mặt trận Tổ quốc Việt Nam; chính sách đối ngoại

N.N.A.
.
.
.