Lên thượng nguồn sông Hinh gặp tác giả ca từ “Cô gái vót chông”

Thứ Năm, 11/07/2013, 23:19
Rời phố núi Hai Riêng, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên khi nắng mai chảy tràn xuống chân những ngọn đồi hình bát úp, tôi theo con đường nhựa - bê tông uốn lượn giữa mênh mang màu xanh cà phê, hồ tiêu, ngô, sắn nối tiếp những dãy nhà sàn để về với buôn Thinh, xã Ea Trol. Và người mà tôi tìm gặp là ông Mô Lô Y Choi - tác giả bài thơ “Cô gái vót chông” nổi tiếng đã được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc bài hát cùng tên từ thời đánh Mỹ.

Ở tuổi 84, vóc dáng hao gầy, mái tóc bạc màu thời gian nhưng Y Choi còn khỏe, ông đón khách bằng nụ cười thiện cảm. Sau giây phút trầm tư khi nghe tôi hỏi về một thời trai trẻ và bài thơ “Cô gái vót chông”, Y Choi tâm sự: “Tui là người dân tộc Ê đê sinh ra ở đây, sau dặm dài ngược xuôi nhiều nẻo, tui vẫn về với buôn làng mình, đồng bào mình. Trong giấy tờ tui là Mô Lô Y Choi, nhưng đồng bào ở buôn Thinh này gọi tôi là Ma Luê. Nói theo người Kinh là cha thằng Luê”.

Ngừng lại một lát như để hồi tưởng, Y Choi kể tiếp: “Bốn năm sau Cách mạng tháng Tám, tui đi học văn hóa ở Trường dân tộc Hòa Nguyên bên huyện Sơn Hòa. Trong chuyến xuôi đồng bằng giữa năm 1954, tui lên tàu biển đi tập kết ra Bắc. Ở lại Thanh Hóa một thời gian ngắn, tui được cử tuyển vào Trường Sư phạm miền núi Trung ương ở Cầu Giấy, TP Hà Nội. Đó là thời điểm Bác Hồ gửi thư thăm học sinh ngày 19/3/1955. Rời trường, tui được Bộ Văn hóa - Thông tin đào tạo lý luận phê bình văn học hai năm thì về Thái Nguyên làm biên tập Tạp chí Văn nghệ Việt Bắc từ năm 1962”.

Ngoài công việc chuyên môn nghiệp vụ, mỗi ngày Mô Lô Y Choi thường dành thời gian theo dõi chiến sự ở phía Nam trên sóng phát thanh Đài Tiếng nói Việt Nam. Xót xa và căm phẫn khi nghe chuyện Mỹ - ngụy càn quét nhiều vùng nông thôn, sát hại người dân vô tội, nhưng cũng có lúc cái bụng Y Choi rộn rã niềm vui khi nghe đồng bào Tây Nguyên vót tên nỏ, đào hầm chông, kiên cường đánh giặc. Những lúc đó, Y Choi trăn trở suốt đêm vì nỗi nhớ quê hương. Nhớ con sông Ba, sông Hinh da diết. Hình ảnh Ksor HĐô - người con gái có giọng nói trong trẻo, đôi mắt hiền lành và những cô gái Ê đê trẻ đẹp như trăng mười sáu, mang gùi tre lắc lư trên lưng, tất bật đôi chân trần vượt suối bẻ măng rừng đánh thức ký ức ông.

Phóng viên với ông Mô Lô Y Choi, tác giả ca từ “Cô gái vót chông”.

Mô Lô Y Choi nhớ lại: “Trong một đêm trăng mùa hè năm 1965 ở Việt Bắc, tui hình dung những cô gái Tây Nguyên tất bật vót chông, tên. Muốn góp chút sức mình vào khí thế đó, tui bật dậy khỏi chiếc võng viết những vần thơ đầu tiên trong cuộc đời của mình. Cảm xúc cứ trào dâng, khiến tui viết một mạch xong bài thơ “Cô gái vót chông”. Sau đó, bài thơ không chỉ đăng ở Tạp chí Việt Bắc mà còn được Tuần báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam giới thiệu với người yêu thơ”. Sau khi nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc bài hát cùng tên, nhiều ca sĩ thể hiện, nhưng thành công nhất là ca sĩ Tường Vi. Nói vậy chứ từ hồi đó cho tới giờ tui chưa gặp Hoàng Hiệp và Tường Vi”.

Những ca từ với nhịp điệu nhanh, giàu hình ảnh đã khơi dậy khí thế mạnh mẽ ở các buôn làng “Như bao cô gái ở trên non/Cô gái sông Ba đầu búi tóc thon/ Tay vót chông miệng hát không nghỉ/Như bao cô gái ở trên non/Như bao cô gái ở Tây Nguyên/Ai nhanh tay vót bằng tay em?/Chim hót không hay bằng tiếng hát em/Mỗi mũi chông nhọn hoắt căm thù/Xiên thây quân cướp nào vô đây…”. Khi nghe tôi hỏi về nguyên mẫu “Cô gái sông Ba đầu búi tóc thon”, Y Choi cười hả hê, rồi bảo “Vợ tui đấy. Ksor H Đô đấy!”

Đó là bài thơ đầu đời của Y Choi, nhưng đẹp nhất, sâu sắc nhất vẫn là kỷ niệm một lần ông được gặp Bác Hồ năm 1961 - khi còn học ở Trường Sư phạm miền núi Trung ương. Y Choi nhớ lại: “Không ai biết trước Bác Hồ đến thăm trường, đến lúc một học sinh reo lên khi nhìn thấy Bác, thì cả trường ùa ra đón trong niềm vui dào dạt. Trông Bác giản dị, gần gũi và thân thiện. Trong lúc đi thăm nhà ăn tập thể, khu nội trú, khu học tập, Bác hỏi chuyện rất thân tình với giáo viên và học sinh. Bác hỏi “Các cháu ăn có no không?”, chúng tôi đồng thanh đáp “Thưa Bác, no ạ!”. Bác dặn dò chúng tôi “Các cháu phải cố gắng học thật giỏi hơn nữa để dạy cái chữ cho đồng bào mình, góp phần xây dựng buôn làng, thôn, bản của mình”.

Và sau 4 năm công tác ở Tạp chí Văn nghệ Việt Bắc, Y Choi tình nguyện vào Tây Nguyên từ năm 1966 làm công tác ở Ban Tuyên huấn tỉnh Đắk Lắk, lòng tràn đầy khát vọng miền Nam sớm giải phóng để đồng bào vui đón Bác Hồ vào thăm như những dòng cuối bài thơ “Cô gái vót chông” ông đã viết “Em vót nhiều chông làm cạm bẫy/Đuổi Ksoc Mỹ xuống biển sâu/Đất nước ta mới liền nhau/Em chặt tre làm đing ktút, đing năm/Quanh lửa hồng em vui nhảy múa/Đón Ava Hồ vô Nam cùng uống rượu cần”.

Đất nước thống nhất được hai năm, Y Choi chuyển công tác về huyện Tây Sơn, tỉnh Phú Yên. Khi huyện Sông Hinh hình thành trên cơ sở tách ra từ huyện Tây Sơn, Y Choi về Sông Hinh làm Phó trưởng ban Tuyên giáo từ năm 1986-1990 thì nghỉ hưu. Về lại buôn làng, nhưng ông vẫn được giao chức trách Bí thư Đảng ủy xã Ea Trol một thời gian nữa rồi mới có thời gian lên nương rẫy trỉa lúa, trồng ngô.

Trở lại chuyện làm thơ, Mô Lô Y Choi tâm sự: “Chưa bao giờ tui dám nhận mình là nhà thơ, vì từ bài thơ đầu đời được nhiều người biết đến, cho tới nay đã 48 năm nhưng “tài sản văn học” của tui chỉ có gần 50 bài thơ”. Vui chuyện, ông đọc cho tôi nghe bài “Hát nữa đi em”, trong đó có những câu “Lặng nghe em hát/ Bài ca Ðam San/ Suối nhạc, lời vàng/ Cây Knia thêm rễ/ Hoa Aring rộ nở/ Cồng chiêng vang rền/ Vực nước trong xanh.../Hát đi em ơi !/ Ngày hội đến rồi/ Tung làn áo mới/ Tình xuân phơi phới/ Ý xuân rộn ràng/ Lễ hội buôn làng/ Bài ca vang vang/ Tình ta thêm chặt…”. Mấy năm gần đây, khi cả nước triển khai cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, đảng viên ở xã Ea Trol được Y Choi tặng một số bài thơ như “Biết ơn Bác Hồ”, “Có Đảng hôm nay”, “Ơn Bác mùa xuân”, “A Rai mừng Đảng - mừng Xuân”…

Trước khi chia tay, Mô Lô Y Choi ngỏ lời xin tôi tấm ảnh mới chụp. Còn tôi chợt nghĩ, rất nhiều người biết đến bài hát “Cô gái vót chông”, nhưng ít ai biết tác giả ca từ là người dân tộc Ê đê đang sống trong căn nhà đại đoàn kết trông rất giản dị, đơn sơ ở miền núi Phú Yên bằng những đồng lương hưu khiêm tốn

Hữu Toàn
.
.
.