Chuyện những trí thức theo Bác Hồ đi kháng chiến

Kỳ 2: Giáo sư, bác sĩ Trần Hữu Tước, người hết mình vì Tổ quốc

Thứ Năm, 08/12/2011, 18:59
“Hạnh phúc thật ra, con nhớ lấy, phải tự mình làm nên, nhường chia vì người khác ta sẽ càng đầy đủ”!, là những điều vị Giáo sư, bác sĩ Trần Hữu Tước gửi gắm cho người con gái của mình khi cô tròn hai mươi tuổi. Cuộc đời ông là một tấm gương lớn lao về sự hi sinh cho đất nước và dân tộc.
>> Kỳ I: Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa, nhà khoa học dấn thân

Giáo sư, bác sĩ Trần Hữu Tước (13/10/1913 - 23/10/1983), người sáng lập và xây dựng ngành Tai mũi họng Việt Nam, Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai (1956-1969), Chủ nhiệm Bộ môn Tai mũi họng Trường Đại học Y khoa Hà Nội (1955-1983), Chủ tịch Hội Tai mũi họng Việt Nam (1961-1983), Viện trưởng đầu tiên của Viện Tai mũi họng Trung ương (từ 1969), Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (1960), đại biểu Quốc hội (khóa II, III, IV), Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch đầu tiên của Tổng hội Y học Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Việt Nam.

Với những đóng góp của mình vào sự nghiệp y tế cách mạng của dân tộc, ông được Đảng và Nhà nước trao tặng danh hiệu Anh hùng Lao động (1966), Huân chương Độc lập hạng Nhất (1983), truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và kĩ thuật đợt I (1996), được tặng Kỷ niệm chương của Trung đoàn Thủ đô. TP Hà Nội đã dành một đường phố thuộc phường Nam Đồng, quận Đống Đa mang tên Giáo sư Trần Hữu Tước.

Từ sức hấp dẫn lôi cuốn diệu kỳ của Bác Hồ

Đầu tháng 9/1946, con tàu Dumont d'Urville vẫn chưa sửa sang nên những vị khách đặc biệt lên tàu để về Việt Nam, gồm Chủ tịch Hồ Chí Minh, thư kí Đỗ Đình Thiện, đại tá cận vệ Vũ Đình Huỳnh, kĩ sư Võ Quí Huân, kĩ sư Trần Đại Nghĩa, bác sĩ Trần Hữu Tước và kĩ sư Võ Đình Quỳnh, lại phải chờ và đợi. Một buổi trưa, khoảng một giờ rưỡi, bỗng Hồ Chủ tịch vào buồng nói với bác sĩ Trần Hữu Tước:

- Chú đi chơi vườn hoa với Bác!

Vội bỏ sách đang đọc, quần áo chỉnh tề, bác sĩ Trần Hữu Tước đi theo, hai người lững thững ra công viên nổi tiếng ở Kandy. Giữa cảnh hoa thơm cỏ lạ buổi chiều hôm đó thật khó quên. Câu chuyện thật liên miên, đầy hứng thú, hai người trí thức cùng nói chuyện về văn học. Điều kì lạ giữa Người công dân số một của đất nước và vị bác sĩ trẻ tuổi là cả hai đều rất thích tác phẩm của văn hào cận đại, đảng viên Đảng Cộng sản Pháp: Anatole France (1844-1924). Vậy nên bác sĩ Trần Hữu Tước đã có thể kể lại những chuyện ngoài lề về cuộc đời súc tích của con người đa dạng này. Nguyễn – Người Yêu Nước –  càng vui, mỉm cười và hỏi:

- Chú có nhớ thơ văn Việt Nam không?

Thế là một dịp hồ hởi, hăng say, bác sĩ Trần Hữu Tước đọc những vần thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi… Đương trong lúc cuồn cuộn nhớ lại, bác sĩ Trần Hữu Tước đột ngột và tự nhiên níu lấy cánh tay áo của Hồ Chủ tịch nói:

- Thưa Bác, có câu nào mạnh và lạ, dùng ngược, rất đẹp như “Hướng dương lòng thiếp như hoa?”.

Hồ Chủ tịch ung dung, khẽ gật đầu:

- Chú ra nước ngoài học tập từng ấy năm, không quên quốc văn, thế là tốt, không mất rễ.

Và Hồ Chủ tịch đọc cho bác sĩ Trần Hữu Tước nghe mấy bài thơ chữ Hán mà Người viết trong thời gian bị giam giữ tại nhà tù Trung Quốc…

Tàu Dumont d'Urville rẽ sóng vượt Đại Tây Dương nhằm hướng Thái Bình Dương. Một đàn cá heo bơi lượn trước và sau tàu. Giữa trời nước mênh mang, bình thản đứng tựa mạn tàu, trong giông bão, nhìn sóng lửng và sóng bạc đầu, làm cho chiến hạm lúc chồm lên, khi lắc chao nghiêng ngả…

Những dòng trên đây trích từ hồi kí của Giáo sư Trần Hữu Tước viết về những kỉ niệm đầu tiên không bao giờ quên của ông với Bác Hồ trên những chặng đường đưa ông về với Tổ quốc.

Những dòng hồi kí viết về một con người vĩ đại, có ý nghĩa đặc biệt đối với tình cảm và cuộc đời của Giáo sư Trần Hữu Tước, một con người mà Giáo sư vô cùng yêu quý, khâm phục và một lòng một dạ tin tưởng đi theo Người, cho đến trọn cuộc đời mình, vì nhân cách cao cả cùng sự uyên thâm của Người: một nhà văn hóa lớn, một người yêu nước thương nòi sâu sắc. Đối với Giáo sư Trần Hữu Tước, Hồ Chủ tịch là hiện thân đầy đủ của sự kiên trì lí tưởng Giải phóng và Cách mạng cho dân tộc Việt Nam.

Nhân dịp kỉ niệm lần thứ 121 Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, kỉ niệm 100 năm Ngày Bác Hồ của chúng ta ra đi tìm đường cứu nước, tôi lần giở lại những trang hồi kí của Giáo sư Trần Hữu Tước - dù được viết ra cách đây gần nửa thế kỉ - song những trang Hồi kí đã khắc họa được một cách rõ nét bước ngoặt cuộc đời của chính ông, một thầy thuốc, một trí thức Việt Nam trẻ tuổi được đào tạo bài bản về y khoa ở Pháp, có lòng yêu nước và khao khát cống hiến, đã lên đường theo Bác Hồ về với quê hương xứ sở, về với biết bao khó khăn thử thách của hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc; bỏ lại đằng sau một tương lai vật chất và nghề nghiệp hứa hẹn trên đất Pháp.

Vợ chồng GS Trần Hữu Tước đến chào Bác Hồ (1957).

Cũng trong những dòng tâm sự sau đây của chính Giáo sư Trần Hữu Tước trong cuốn hồi kí này, ông viết: “Nỗi sung sướng không bút nào tả nổi khi một buổi sáng thu bừng con mắt dậy, thấy mình tự do!”. Đó là năm 1945, bác sĩ Trần Hữu Tước, trợ lí giáo sư Khoa Tai mũi họng Bệnh viện Nhi khoa Necker, được tin Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh, tuyên bố trước toàn thế giới: Nước Việt Nam độc lập.

Bản chất thiết tha muốn có công bằng, tiến bộ cho đất nước, nay phải làm gì cho xứng đáng nền Độc lập, Tự do của Tổ quốc mới giành lại được sau hơn tám mươi năm nô lệ đây? Sau những phút giây trằn trọc suy nghĩ, thấy mình  không thể tọa hưởng cuộc đời mới vô ngàn quý báu, biết bao nhiêu hi sinh xương máu mới hình thành nên được. Vậy là ông quyết tâm về nước. Một quyết định nhẹ nhàng dẫu ông hiểu rằng trước mắt sẽ đầy rẫy những gian nan, thử thách ý chí người trí thức.

Người thầy quý mến của ông, lúc ấy đã hơn 60 tuổi, biết không thể nào ngăn được bước chân học trò, khi chia tay nhau đã cảm động nói: “Anh bây giờ có Tổ quốc độc lập rồi, về phục vụ là phải, tuy tôi như mất một cánh tay!”. Người thầy ấy còn dặn dò thêm: “Không bao giờ được bỏ nghề chuyên môn” đã dày công trau dồi.

Đi theo ngọn lửa của lý tưởng

Cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, bác sĩ Trần Hữu Tước phụ trách cứu thương cho Trung đoàn Thủ đô suốt 60 ngày đêm chiến đấu trong nội thành Hà Nội.

Tháng 2/1947, ông cùng với các chiến sĩ rút khỏi Hà Nội ra vùng kháng chiến. Rời Thủ đô thân yêu, ông mang theo 30kg dụng cụ chuyên khoa đi kháng chiến. Tiếp theo là hai năm ở Liên khu 3, ông theo Trường Y sĩ di chuyển đến 30 địa điểm trên nhiều vùng nông thôn rộng lớn để tuyên truyền phòng bệnh, chữa bệnh cho bộ đội và nhân dân.

Từ cuối năm 1948, do chưa quen với khí hậu và làm việc nhiều, ông lâm bệnh, sức khỏe giảm sút. Biết tin, Bác Hồ đã biên thư ra lệnh, yêu cầu ông nghỉ làm việc để dưỡng bệnh. Nhưng ông vẫn cố gắng làm việc. Ông kiên quyết từ chối những lời mời trở lại làm việc trong vùng tạm chiếm với nhiều ưu đãi.

Năm 1951, bác sĩ Trần Hữu Tước được đi chữa bệnh tại Trung Quốc.

Rồi chiều hôm đó, từ trong khu rừng Việt Bắc, còn ánh mặt trời trên đầu ngọn cây, bác sĩ Trần Hữu Tước sắp lên xe. Bỗng có tiếng ngựa phi, nhịp nhàng nước đại… Bác Hồ đến tiễn!

Thấy ông gầy gò, dô cả xương mà chỗ ngồi, chỗ tựa, ghế xe zíp rất cứng, Bác gọi lấy hai chiếc gối cỏ để chèn cho khỏi xóc đường trường, rồi thấy đầu ông có thể va vào khung sắt của mui xe, Bác lấy ngay mũ vàng của Bác chụp lên đầu và lần nữa Bác dặn chú ý!

Xe chuyển bánh, Bác đứng một lúc, vẫy tay, rồi Bác nhẩy lên ngựa và lúc bác sĩ Trần Hữu Tước ngoái đầu lại, chỉ còn thoáng nhìn bóng ngựa hồng hồng ánh chiếu tỏa xuống…

Trong những năm kháng chiến chống Pháp ấy và những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, xây dựng CNXH sau này, Giáo sư Trần Hữu Tước đã vượt lên bao khó khăn, thiếu thốn, vất vả, chấp nhận có thể hi sinh để vươn lên trở thành một tấm gương sáng về y đức, của trí tuệ người thầy.

Nhớ ông, bao học trò thành danh đều dành cho ông sự ngưỡng mộ và lòng thành kính, bao bệnh nhân được ông chữa bệnh coi ông như một ông tiên ngoài đời về sự tận tâm, sẻ chia nghèo khổ với họ, kể cả bớt phần lương ít ỏi của mình cho người bệnh nghèo. Tầm lòng son đối với Bác Hồ, đối với Đảng ở ông chưa gợn chút bụi mờ.

Cha bà là thế! Còn nhớ, ngày 10/1/1967, Bệnh viện Bạch Mai tưng bừng đón danh hiệu Anh hùng Lao động cho GS Trần Hữu Tước, Giám đốc bệnh viện. Hôm ấy, Giáo sư Trần Hữu Tước nhận bó hoa tươi của đồng nghiệp, ông đã trao tặng ngay lại cho đồng chí Vũ Văn Quyết, Bí thư Đảng ủy bệnh viện với lời tâm sự đầy xúc động: “Năm nay tôi đã 53 tuổi, nhưng thực ra tôi mới chỉ sống có 20 năm, còn 33 năm trước là những năm sống không ra sống. Nếu không có sự giúp đỡ và giáo dục của Đảng và Bác Hồ thì tôi mãi mãi sẽ thành con người lưu vong, cả cuộc đời sẽ không tìm thấy ý nghĩa…”.

Trong  những ngày cuối cùng nơi giường bệnh, biết mình không qua khỏi trước căn bệnh hiểm nghèo, Giáo sư Trần Hữu Tước đã lấy trong túi tấm thẻ đảng viên đưa cho con gái đầu lòng và dặn: “Sau khi bố qua đời, con mang thẻ đảng này nộp cho đồng chí Bí thư, đừng đưa sớm hơn” là để khỏi gây xúc động trong Đảng bộ, cơ quan”.

Bác sĩ Trần Tố Dung chia sẻ với chúng tôi rằng, mới đây, bà theo dõi cuộc trò chuyện của Đại tá Trần Trọng Trung trên Đài Truyền hình. Bà đã bật khóc vì xúc động. Người cựu chiến binh gần 90 tuổi ấy, từng trải qua hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, khi tâm sự với thế hệ trẻ đã nói như thế này: “Thế hệ chúng tôi tự hào đã rửa được cái nhục mất nước và nô lệ để có được đất nước độc lập và hoàn toàn thống nhất hôm nay”. Đó cũng chính là câu mà cha bà, Giáo sư Trần Hữu Tước vẫn thường hay nói…!

Những lời nói đó của thế hệ cha ông đi trước, bất kể người đó là ai, làm gì, xuất thân như thế nào, miễn là người Việt Nam, với lòng yêu nước nồng nàn, và những sự hy sinh vô bờ bến vì một mục tiêu kiên định là Độc lập, Tự do cho đất nước, là những lời thiêng liêng nhắn gửi thế hệ của tôi và những thế hệ tiếp nối mai sau: Những sự hi sinh đó sẽ không uổng phí khi mỗi chúng ta hiểu được rằng để có một nền Độc lập và Tự do vĩnh viễn chúng ta còn cần phải thoát khỏi đói nghèo và lạc hậu nữa! Đó cũng chính là ước mơ được chia sẻ, hi sinh, cống hiến, học hỏi, xây dựng, vì sự tiến bộ của đất nước, ngày mai, mà cha tôi mong muốn để lại.

Chính ông đã từng gửi gắm những điều này, trong một bức thư gửi cho tôi, khi tôi tròn hai mươi tuổi: “Hạnh phúc thật ra, con nhớ lấy, phải tự mình làm nên, nhường chia vì người khác ta sẽ càng đầy đủ”! Cuộc đời của cha tôi đã là một tấm gương về sự hi sinh và chia sẻ, không một chút nuối tiếc và ân hận vì hạnh phúc được sẻ chia số phận mình với số phận của đất nước, dân tộc. Đối với ông, niềm hạnh phúc được san sẻ lớn lao hơn bất cứ điều gì khác!

Giáo sư Trần Hữu Tước xuất thân trong một gia đình trung lưu tại làng Bạch Mai, xã Hoàn Long, tỉnh Hà Đông, nay thuộc quận Hoàng Mai, Hà Nội. Lớn lên, ông là một trong những học sinh xuất sắc tại Trường Albert Sarraut – trường học danh giá thời Pháp thuộc.

Năm 1930, chưa đầy 18 tuổi, trong lúc bao nhiêu hoài bão, ảo mộng của tuổi mới lớn lên, nhưng ông luôn đau đáu trong lòng cái nhục mất nước, bất công, áp bức, nghèo nàn, dốt nát… của người dân nô lệ. Rời đất nước để ra đi, ông đã tự nhủ: “Hãy học nghề cho thành thạo, sau này mới có thể phục vụ Tổ quốc, nhân dân”.

Sang Pháp học và thi đỗ vào Trường Đại học Y khoa Paris, bảo vệ Luận án bác sĩ y khoa xuất sắc năm 1937, làm bác sĩ ngoại trú và nội trú các bệnh viện Paris, rồi bác sĩ nội trú và trợ lí giáo sư cho Giáo sư Jacques M-Lemee, một giáo sư danh tiếng về Tai mũi họng của Bệnh viện Nhi khoa Necker, rất nổi tiếng ở Pháp. Năm 1939, Đại chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ, ông tham gia vào hàng ngũ những người kháng chiến yêu nước Pháp chống lại quân Đức.

Hồng Thái - Kiều Khải
.
.
.