Huyền thoại 11 cô gái sông Hương

Thứ Sáu, 10/04/2015, 08:18
Chiến tranh đã lùi xa vào dĩ vãng, nhưng cuộc chiến đấu anh dũng, kiên cường của tiểu đội nữ du kích mang tên “11 cô gái sông Hương” trong suốt 25 ngày đêm để bảo vệ thành Huế, sau 40 năm vẫn như một bản anh hùng ca trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Để khắc ghi những chiến công huyền thoại của các chị, các mẹ, UBND tỉnh Thừa Thiên- Huế đã đồng ý chọn địa điểm và xúc tiến xây tượng đài 11 cô gái sông Hương trên địa bàn phường Vỹ Dạ, TP Huế…

Một ngày trung tuần tháng 4, trong không khí hân hoan khi cả nước đang chuẩn bị lễ kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, chúng tôi trở lại thăm bà Hoàng Thị Nở - một trong những nữ anh hùng của tiểu đội du kích “11 cô gái sông Hương” năm xưa gắn liền với trận đánh nổi tiếng để bảo vệ thành Huế vào xuân 1968. Trong căn nhà nhỏ nằm ở con hẻm trên đường Bà Triệu (TP Huế), bà Nở pha trà mời khách và bồi hồi kể lại những ngày chiến đấu ác liệt giữa ta và địch trong chiến dịch Tết Mậu Thân 1968.

Theo lời bà Nở kể: Ngày ấy, tiểu đội của bà là đội nữ dân quân Thiên Thủy đóng ở xã Thủy Thanh (thị xã Hương Thủy). Để chuẩn bị cho chiến dịch xuân 1968, tháng 6/1967, Thành ủy Huế đã giao cho tiểu đội bà Nở nhiệm vụ dẫn đường đưa bộ đội tấn công vào các mục tiêu ở TP Huế, đồng thời trực tiếp đánh giặc và sau đó đổi tên thành tiểu đội du kích “11 cô gái sông Hương”.

“Vì hoạt động bí mật nên cả 11 chị em trong tiểu đội đều phải làm mọi cách để che giấu tên tuổi, cũng như thân phận của mình, thậm chí người trong gia đình cũng không hề biết chúng tôi làm gì. Để hoàn thành nhiệm vụ dẫn đường, tiểu đội phải bám địa bàn, nghiên cứu kỹ lưỡng từng đoạn đường để đưa bộ đội vào thành Huế mà không rơi vào bẫy mìn của địch. Vì thế, mấy chị em đành phải cải trang làm người bán rau, bán cá, người đưa thư... để có thể nắm tường tận các điểm chốt địch nhằm dễ bề đối phó”, bà Nở giải thích.

Tiểu đội nữ du kích “11 cô gái sông Hương”.

Nắm rõ địa bàn như lòng bàn tay, đêm 30 Tết năm 1968, tiểu đội “11 cô gái sông Hương” phối hợp cùng quân chủ lực chia làm 3 hướng tiến vào TP Huế đánh chiếm các điểm căn cứ trọng yếu của giặc. Bị tấn công bất ngờ nên quân giặc hoảng loạn tháo chạy. Tuy nhiên, ngay sau đó, giặc đã tìm mọi cách để lấy lại địa bàn vừa mất bằng cách tăng cường lực lượng bộ binh cùng nhiều xe tăng, xe bọc thép.

5h30 sáng 12/2/1968, tiểu đoàn thủy quân lục chiến địch cùng 10 xe tăng ầm ập tiến vào TP Huế. Lúc này, tiểu đội của bà Nở đã chia làm nhiều cánh phối hợp cùng bộ đội chủ lực đánh chặn địch từ hướng sân bay Phú Bài, chợ Cống cùng nhiều hướng khác. Biết kẻ địch có xe tăng yểm trợ nên các chị đã nghĩ ra cách cài mìn, thuốc pháo trên các đoạn đường, đồng thời chia ra nhiều hướng để tập kích địch. Khi xe tăng của địch ra khỏi sân bay Phú Bài và dọc đường tiến lên TP Huế thì vấp phải mìn phát nổ. Lợi dụng lúc kẻ địch hoảng loạn, các chị liều mình lao ra xả súng khiến địch không kịp trở tay.

“Tuy nhiên, trận đánh nào cũng có hy sinh và mất mát. Trong trận đánh lớn ngày hôm ấy, 2 người trong tiểu đội là chị Hoàng Thị Sáu và Đỗ Thị Cúc đã hy sinh khi các chị chiến đấu đến viên đạn cuối cùng. Trong 25 ngày đêm chiến đấu để giữ vững trận địa ở Huế, tiểu đội chúng tôi lại mất thêm 2 người nữa là chị Hoàng Thị Hết và chị Nguyễn Thị Diên...”, lần dở lại những tư liệu quý giá về tiểu đội “11 cô gái sông Hương” do gia đình cất giữ suốt hàng chục năm qua, bà Nở rưng rưng nhớ lại những người đồng đội đã ngã xuống trong cuộc chiến chống giặc Mỹ.

Sau trận chiến đấu ấy, tiểu đội “11 cô gái sông Hương” được Bác Hồ viết thư khen ngợi. Sau khi chiến dịch Mậu Thân kết thúc, tiểu đội “11 cô gái sông Hương” đã được đổi tên thành Trung đội Võ Thị Sáu và tiếp tục tham gia đánh giặc. Đến tháng 4/1972, trong một trận đánh chống quân Mỹ-ngụy càn xuống Kim Long, Đội trưởng Phạm Thị Liên đã anh dũng hy sinh khi tuổi đời còn chưa quá đôi mươi…

Trở về với thời bình, bà Nở cùng các đồng đội như: Nguyễn Thị Hợi, Nguyễn Thị Hoa, Chế Thị Mừng... dù mang trên mình nhiều vết thương của bom đạn chiến tranh, thậm chí có người còn bị di nhiễm chất độc da cam, nhưng các chị vẫn thường xuyên gặp gỡ để ôn lại kỷ niệm chiến đấu và cùng nhau chia sẻ khó khăn trong cuộc sống. Trong những dịp lễ, Tết, họ cũng không quên ghé thăm gia đình những người đã hy sinh, như cụ bà Nguyễn Thị Bờ, mẹ anh hùng Phạm Thị Liên ở làng Vân Thê (xã Thủy Thanh).

“Có lần chúng tôi về thăm, mẹ Bờ nhìn di ảnh cô con gái trên bàn thờ rồi ôm chầm cả mấy chị em mà khóc. Mẹ nói: “Cả cuộc đời mẹ không tiếc bất cứ thứ chi, kể cả nhiều lần bị địch bắt, tra tấn khi chúng phát hiện con gái mẹ đi theo cách mạng. Thế nhưng, mẹ chỉ ân hận một điều là con Liên nó ra đi khi tuổi đời còn quá trẻ, mẹ còn chưa kịp mai mối nó cho ai cả!”...

Với thành tích đạt được trong kháng chiến, năm 2008, tiểu đội “11 cô gái sông Hương” đã được Nhà nước trao, có chị được truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND. Những ngày tháng tư lịch sử này, một tin vui đến với bà Nở và đồng đội, đó là việc chính quyền tỉnh Thừa Thiên - Huế đang chọn địa điểm và xúc tiến xây dựng tượng đài 11 cô gái sông Hương tại phường Vỹ Dạ, TP Huế, để khắc ghi hình tượng những người con gái Huế trung dũng, kiên cường năm xưa…

Anh Khoa
.
.
.