Giữ ‘mắt thần’ trên đảo Cồn Cỏ

Thứ Tư, 22/04/2015, 09:01
Bên ấm nước chè xanh của ngày hè bỏng nắng, chúng tôi như lặng đi trong câu chuyện của cựu binh Lê Hữu Trạc, người đã gần 1.000 ngày đêm cùng đồng đội bám trụ trong mưa bom bão đạn để giữ đảo Cồn Cỏ, nơi được địch xem là “mắt thần trên biển Đông”. Cuộc đời của cựu binh Lê Hữu Trạc như bản tình ca về người lính với những nốt thăng, nốt trầm hằn in trong tâm trí người nghe.

Sinh năm 1941, lúc vừa tròn 20 tuổi, anh Lê Hữu Trạc tạm biệt gia đình, gốc lúa, bờ tre hồn hậu ở thôn Xuân Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình lên đường theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Anh lính trẻ Lê Hữu Trạc được phân về Đại đội Lê Hồng Phong, Tiểu đoàn 4, Sư đoàn 341.

Đại đội Lê Hồng Phong là đơn vị bảo vệ giới tuyến 17, vì vậy mỗi cán bộ, chiến sĩ của đơn vị luôn được xem như những hạt giống đỏ của sư đoàn.

Năm 1965, Mỹ đánh phá ra miền Bắc, và đảo Cồn Cỏ luôn nằm trong tầm ngắm xâm chiếm của địch. Bởi, lúc bấy giờ địch xem đảo Cồn Cỏ như “mắt thần trên biển”.

Và lịch sử đã chọn Cồn Cỏ trở thành vị trí tiền tiêu cho cả miền Bắc trong kháng chiến bởi vì khi vĩ tuyến 17 chia đôi hai miền đất nước thì vị trí của đảo Cồn Cỏ nằm vào 17008’15’’ tới 17010’05’’ vĩ độ Bắc gần như liền kề với đường giới tuyến.

Âm mưu của địch là chiếm đảo Cồn Cỏ để làm bàn đạp thâm nhập vào hậu phương miền Bắc. Mặt khác, tất cả máy bay địch khi bay ra miền Bắc ném bom đều phải bay qua đảo Cồn Cỏ, vì vậy Cồn Cỏ trở thành mục tiêu hủy diệt, xâm chiếm của địch. Năm 1965, lãnh đạo Đại đội Lê Hồng Phong nhận lệnh của cấp trên lựa chọn một Trung đội lên đường ra giữ đảo Cồn Cỏ.

Tất cả các Trung đội trong Đại đội Lê Hồng Phong đều xung phong ra đảo với tinh thần bất khuất như lời thơ của cố nhà thơ Tố Hữu “Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa/ Vui gì hơn bằng người lính đi đầu”.

Kể về những ngày giữ đảo khốc liệt từ 1965-1967, giọng cựu binh Lê Hữu Trạc run run, những ký ức thời quá vãng như lại hiện về nguyên vẹn trong ông. Trung đội của ông chỉ 30 người, nhưng có ngày họ đã phải gánh chịu hàng chục tấn bom đạn của địch.

Ngoài nhiệm vụ chiến đấu, những người lính trên đảo còn phải xây dựng đảo trở thành một trạm ra đa trên biển của miền Bắc. Hằng ngày, các anh phải nắm được số lượng tàu địch tăng hay giảm, lượng máy bay cất cánh ra bắn phá miền Bắc…

Có lúc địch đưa tàu bao vây đảo, suốt 6 tháng liền các tàu tiếp tế của ta không thể ra đảo, ông luôn động viên đồng đội: “Thà hy sinh chứ không để mất đảo”. Từ những lời động viên của Trung đội trưởng bộ binh Lê Hữu Trạc, anh em trên đảo đã luôn giữ vững khí thế chiến đấu với kẻ thù.

Gia đình thương binh Lê Hữu Trạc vinh dự đón Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan và lãnh đạo tỉnh Quảng Bình đến thăm.

Nhiều đồng đội của Lê Hữu Trạc đã trở thành Anh hùng. Đó là trinh sát Anh hùng Thái Văn A lên đài quan sát, mặc dù bị thương do mảnh bom của máy bay Mỹ, anh đã tự băng bó vết thương để bám trụ chứ nhất định không chịu rời trận địa, góp phần cùng đơn vị bắn rơi hai máy bay vào ngày 11/3/1965.

Anh hùng Nguyễn Tăng Mật bị pháo địch vùi lấp, nhưng khi vừa tỉnh lại anh lại lên trận địa pháo tiếp tục hiên ngang giáng vào đầu địch.

Đó còn là Anh hùng Cao Văn Khang, người lính công binh đã hiên ngang đi lại giữa mưa bom bão đạn của kẻ thù để gỡ từng quả bom nổ chậm, từng quả ngư lôi của địch...

Tháng 5/1968, ông Lê Hữu Trạc được phân công làm Tham mưu trưởng Tiểu đoàn 4, E270, Quân khu IV. Bất cứ ở vị trí công tác nào, ông đều thể hiện rõ bản chất gan dạ, sáng suốt của người chỉ huy đơn vị, người luôn được đồng đội nể phục, kính trọng.

Tháng 7/1968, trong lúc đi nghiên cứu địa hình chống địch đổ bộ bằng đường không vào Vĩnh Linh, Quảng Trị, ông Lê Hữu Trạc đã bị bom đạn kẻ thù cướp đi 2 con mắt. Phải xa đồng đội để về lại tuyến sau, nhiều ngày đêm người lính kiên cường Lê Hữu Trạc giấu nước mắt vào trong gối.

Về lại tuyến sau, cựu binh Lê Hữu Trạc được đồng đội đưa về an dưỡng ở Hà Tây. Nơi đây, người lính của những đơn vị anh hùng đã gặp cô gái Kim Thị Mão và họ nên vợ nên chồng.

Ngày cô gái Kim Thị Mão vừa tròn tuổi 18 với nước da trắng hồng, đôi mắt xinh nhất làng quyết định theo anh thương binh Lê Hữu Trạc về lại quê nghèo Quảng Bình để xây dựng cuộc sống lứa đôi, không ít người làng tỏ ra ái ngại. Nhưng tình yêu của họ đã vượt qua tất cả.

“Tôi bị mù 2 mắt nhưng bàn tay và khối óc thì vẫn sáng trong”, Lê Hữu Trạc cười nói vậy.

Năm 1973, niềm vui vỡ òa trong căn nhà nhỏ của họ ở thôn Xuân Ninh khi chị Mão sinh con trai đầu Lê Hữu Tiệp. “Đời tôi may mắn nhất là gặp được vợ tôi đây”, ông Lê Hữu Trạc cầm lấy tay vợ nói vậy. Từ một cô gái mới lớn về đất lạ quê chồng, chồng lại bị mù cả 2 mắt, Kim Thị Mão đã tập cuốc, tập cày để nuôi chồng, nuôi con.

Thương vợ, nên hằng ngày thương binh Lê Hữu Trạc cố gắng làm những việc có thể đỡ đần vợ, không còn mắt thì anh “nhìn ánh sáng bằng tay”.

Phẩm chất người lính luôn cần cù, vượt khó đã giúp anh vượt qua từng cơn dông bão của cuộc đời. Hai vợ chồng họ lần lượt có thêm con gái Lê Thị Ngọc Tú, con trai Lê Hữu Chính.

Thấu hiểu nỗi vất vả của mẹ cha, các con của ông bà đều cần mẫn làm việc và vượt khó học hành. Để rồi người trồng cây sẽ có ngày hái quả, nay cả 3 đứa con của ông bà Lê Hữu Trạc, Kim Thị Mão đều đã trưởng thành, có công ăn việc làm ổn định.

Hằng đêm ông Lê Hữu Trạc luôn tự nhủ mình “thương binh tàn nhưng không phế”, năm 2000 ông làm tờ trình gửi lãnh đạo tỉnh Quảng Bình thành lập Hội Người mù của tỉnh. Để rồi từ khi có Hội Người mù, hàng trăm thương binh bị mù hoặc con em thương, bệnh binh, cũng như nhiều cháu bị mù lòa đã có công ăn việc làm, tự nuôi sống bản thân mình.

Năm nay đã bước qua tuổi 70, với 50 năm tuổi Đảng, hằng ngày cựu binh Lê Hữu Trạc vẫn tìm cách đến động viên con em nhiều gia đình nghèo trong xóm, ngoài thôn cố gắng tu chí học hành. Ông vẫn kể chuyện về đảo Cồn Cỏ, về những người đồng đội với thế hệ trẻ, xem đó như mạch nước ngầm đầy chất nhân văn về truyền thống yêu nước của dân tộc nối dài qua từng thế hệ.

Dương Sông Lam
.
.
.