Gặp lại anh hùng quân đội Nguyễn Thị Chiên

Chủ Nhật, 06/06/2010, 10:10
Đại hội Anh hùng Chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất được tổ chức tại Việt Bắc (1/5/1952), Nguyễn Thị Chiên là nữ du kích duy nhất được chọn đi báo cáo điển hình. Với những đóng góp của mình, Nguyễn Thị Chiên được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng ở tuổi 22.

Từ người nữ du kích tay không bắt giặc…

Hồ sơ lưu tại Viện Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam có viết: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Thị Chiên, trong kháng chiến chống Pháp từ năm 1946 đến năm 1952, tham gia xây dựng cơ sở kháng chiến ở 5 thôn, xây dựng và chỉ huy Đội du kích xã Tán Thuật (huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình) đánh địch chống càn, phá giao thông đường 39, phá tề, diệt và bắt nhiều địch.

Bà đã diệt, làm bị thương và bắt 15 tên địch. Tháng 4 năm 1950, khi đưa cán bộ về hoạt động tại xã, bà bị địch bắt, dụ dỗ, tra tấn suốt 3 tháng rưỡi vẫn kiên trung bất khuất. Tháng 10/1951, trong trận phục kích đánh địch trên đường 39, bà bắn bị thương 1 tên địch, bắt sống 6 tên, thu 4 súng. Tháng 12/1951, khi địch lùng sục vào làng, bà chỉ huy du kích bất ngờ xông ra bắt sống 4 tên địch.

Bà được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba, Huân chương Chiến công hạng nhất, 2 Huân chương Kháng chiến hạng nhất. Năm 1952, được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng thưởng khẩu súng ngắn của Người.

Vượt cây cầu Long Biên đã quá tuổi trăm, tôi sang phường Ngọc Thụy, quận Long Biên (Hà Nội). Đúng giờ hẹn, người nữ Anh hùng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam - bà Nguyễn Thị Chiên - đón tôi vào nhà.

Theo hồ sơ thì bà sinh năm 1930, tại xóm Trại Đồng, xã Tân Tiến (nay là thị trấn Nê, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình), nhưng bà cho tôi biết, năm sinh này không biết đúng hay sai vì lý lịch của bà do anh em công tác khai hộ. Ngay cả cái tên Nguyễn Thị Chiên cũng là do anh em du kích đặt cho bà sau này, chứ cha mẹ bà chỉ gọi là Tý con. Nhà bà có 5 anh chị em, bà là út. Gia cảnh khốn khó, sinh bà hôm trước, hôm sau người mẹ đã phải ủ con trong gio cho nóng để đi làm thuê, làm mướn lần hồi kiếm miếng ăn. Mới lớn, Nguyễn Thị Chiên đã phải đi ở đợ, bế con cho nhà người khác.

Sinh ra và lớn lên trên quê hương cách mạng, từ năm 16 tuổi Nguyễn Thị Chiên tự nguyện đến với cách mạng, bà được các anh chị du kích giao nhiệm vụ rải truyền đơn, kết hợp với bảo vệ vòng ngoài cho các cơ sở bí mật của cách mạng, đồng thời phát hiện nơi ém quân của địch.

Bà không thể quên được những lần chặt chuối làm phao kẹp vào nách bơi vượt sông Thái Bình đi quấy nhiễu đồn bốt của thực dân Pháp. Lúc đi đạn bắn dữ dội, lúc về xe lội nước địch ào ào đuổi đằng sau. Nhưng những chuyến đi, về đều an toàn và những đợt tập kích địch đã làm vững vàng thêm bản lĩnh và nối dài công trạng của nữ du kích Nguyễn Thị Chiên.

Đặc biệt nhất là lần phối hợp với Đại đội 44 Tiểu đoàn 680, Đại đoàn 320 tiêu diệt lính Âu Phi trên Đường 39. Chính ở trận này, tay không mà bà đã bắt được tên quan hai Pháp. Danh hiệu "tay không bắt giặc" cũng theo bà Nguyễn Thị Chiên từ đó.

Bác Hồ và các Anh hùng Chiến sĩ Thi đua tại Việt Bắc năm 1952 (Anh hùng Nguyễn Thị Chiên đứng thứ 5 từ trái qua).

Đến người nữ anh hùng quân đội đầu tiên…

Đại hội Anh hùng Chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất được tổ chức tại Việt Bắc (1/5/1952), bà Nguyễn Thị Chiên là nữ du kích duy nhất được chọn đi báo cáo điển hình. Với những đóng góp của mình, Nguyễn Thị Chiên được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng ở tuổi 22.

Sau Đại hội Anh hùng và Chiến sĩ Thi đua toàn quốc, Anh hùng Nguyễn Thị Chiên được cử tham gia đoàn đại biểu đi dự Đại hội Hòa bình châu Á - Thái Bình Dương tại Bắc Kinh (Trung Quốc), Đại hội Hòa bình Thế giới tại Viên (Áo) cùng với các nhà trí thức Việt Nam như luật sư Nguyễn Mạnh Tường, cư sĩ Lê Đình Thám, nhà giáo Đặng Chấn Liêu, nhạc sĩ Đỗ Xuân Oanh, Nguyễn Xuân Trâm, Anh hùng Ngô Gia Khảm… do đồng chí Xuân Thủy làm trưởng đoàn.

Về nước sau ngày giải phóng Thủ đô, với kinh nghiệm tổ chức và triển khai lực lượng du kích địa phương, bà đã được giao nhiệm vụ phụ trách và quản lý dân quân 4 huyện ngoại thành Hà Nội. Trong công tác mới, bà đã gặp ông Vũ Anh Tài, cán bộ Sư đoàn 320. Bà và ông đã nên duyên, rồi sinh được một người con gái và đây cũng là người con duy nhất của họ. Đất nước bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, ông đi biền biệt, bà ở lại vừa công tác vừa nuôi con. Sau nhiều năm công tác tại Tổng cục Chính trị, Quân khu Thủ đô, bà Nguyễn Thị Chiên về hưu với quân hàm Trung tá (1984) và thương tật hạng 4/4!

Có lẽ người nữ Anh hùng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam Nguyễn Thị Chiên là người dành được khá nhiều tình cảm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với bút danh C.B trên Báo Nhân dân, Người đã viết một bài riêng với nhan đề: NGUYỄN THỊ CHIÊN

"Nữ trung đội trưởng du kích Nguyễn Thị Chiên là một cố nông, 22 tuổi, vào đội du kích từ 1946.

Vùng chị Chiên thường bị giặc càn quét. Cơ sở tan rã. Nhân dân hoang mang. Chị cứ bám sát lấy dân, lập lại cơ sở chính quyền và đoàn thể, tổ chức một trung đội nữ du kích chống càn quét, bảo vệ làng.

Bị bắt, bị tra tấn suốt 3 tháng, bị đưa ra bắn dọa 3 lần, chị vẫn bình tĩnh, không khai nửa lời. Vừa thoát được về, tuy mình đầy vết thương, chân đau không đi được, chị cũng hoạt động lại ngay. Trong đợt thi đua từ 19/5 đến 19/12/1951, chị đã thắng 10 trận, tự tay tước được 15 súng và bắt sống 20 tên giặc (1 tên quan hai Pháp). Trong các trận, chị không hề bỏ sót một người thương binh nào. Trong vụ thuế nông nghiệp, chị đã thức 30 đêm liền, tuyên truyền giải thích từng nhà, từng người. Nhiều người lạc hậu, thấy chị thành khẩn, đều cảm động và trở nên hăng hái. Khi bắt được tên đồn trưởng (nó đã giết người anh của chị), chị giải thích chính sách khoan hồng của Chính phủ, rồi thả nó. Vì vậy, nó đã gọi nhiều ngụy binh khác ra hàng.

Chị Chiên, vì yêu nước, căm giặc, trung thành với đoàn thể, kiên quyết bám sát dân, luôn luôn thương yêu đồng đội, nắm vững và ra sức thi hành chính sách nên đã lập được công to, rất xứng đáng là Anh hùng Quân đội". (Hồ Chí Minh Toàn tập, t6, NXB Chính trị quốc gia 2000, tr 505).

Trong "BÀI NÓI TẠI BUỔI LỄ BẾ MẠC LỚP CHỈNH HUẤN CÁN BỘ TRÍ THỨC" Hồ Chủ tịch nhắc nhở: "Chín năm trước đây, nhân dân ta gồm cả trí thức ta, bị Tây khinh rẻ và gọi là "giống bẩn thỉu". Ngày nay, ta có những anh hùng như Ngô Gia Khảm, Hoàng Hanh, Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Thị Chiên, Nguyễn Quốc Trị và đang nảy nở hàng trăm chiến sĩ và anh hùng trong phong trào thi đua yêu nước". (Hồ Chí Minh Toàn tập, t7, NXB Chính trị quốc gia 2000, tr 145-149).

Khi viết bài "NGƯỜI CÁN BỘ CÁCH MẠNG" vẫn với bút danh C.B, Hồ Chủ tịch lại nhắc đến: "Nữ anh hùng du kích Nguyễn Thị Chiên, mấy lần bị giặc bắt và tra tấn sống đi chết lại, nhưng không hề lộ bí mật; mỗi lần thoát khỏi tay địch, hoạt động càng thêm hăng". (Hồ Chí Minh Toàn tập, t7, NXB Chính trị quốc gia 2000, tr 480-482).

Luôn luôn nhớ ơn Bác Hồ

Với lòng quả cảm, gan dạ và có những phương pháp đánh địch đầy sáng tạo, Nguyễn Thị Chiên trở thành một du kích cừ khôi, tiếng tăm vang dội khắp vùng. Sau một thời gian điên cuồng lùng sục, địch bắt được bà tại làng Rặng Thông (xã Cầu Trục, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình). Suốt ba tháng rưỡi bị giam cầm trong lao tù, bị đánh đập, tra tấn bằng đủ mọi cách, địch không moi được gì ở bà. Chúng buộc tay chân bà vào một cây tre rồi đem vứt xuống sông. Chờ bà sắp chết, chúng lại vớt lên nhưng vẫn không moi được thông tin gì. Địch lại giả vờ đem bà đi bắn. Băng đen bịt mắt, tay chân buộc như tử tù, giặc nổ súng. Bà vẫn giữ vững tinh thần cách mạng. Cuối cùng, không có chứng cớ, chúng đành phải thả bà.

Bà tâm sự với người viết bài này rằng, vượt qua tất cả những thủ đoạn tra tấn tàn ác của giặc là nhờ trong tim bà luôn có Bác Hồ.

- Từ trong hậu địch tôi đã tâm niệm Bác Hồ là Thánh sống trên đầu tôi. Chính vì vậy, khi bị địch bắt tù đày, nghĩ đến Bác Hồ, tôi một lòng một dạ không khai. Tôi đã tự đề ra câu hỏi trong đầu như thế này: Nếu như địch bắn vào chỗ nguy hiểm và nhất định mình nắm chắc trong tay cái chết, thì lúc bấy giờ tôi hô: Hồ Chủ tịch muôn năm! Đảng Cộng sản muôn năm!

Nhưng chúng bắn chỉ thiên sau khi hất tôi xuống sông. Chúng làm vậy là để nhiều lần khai thác. Mưu mô của giặc thất bại chính vì nhờ trong tim tôi vẫn luôn có Bác. Tôi cương quyết không khai và hy vọng sau này nếu kháng chiến thành công, nhất định tôi sẽ được gặp Bác Hồ. Cuối cùng tôi đã chiến thắng.

Được gặp Bác Hồ tại Đại hội Anh hùng Chiến sĩ thi đua toàn quốc lần đầu tiên là thỏa lòng mơ ước của người nữ du kích ở quê hương "tiếng trống Tiền Hải". 

- Anh bảo tôi ngốc quá cơ. Đi thì đinh ninh mong mỏi làm sao được gặp Bác Hồ. Tôi để bụng phải nhớ hết tất cả những lời Bác căn dặn để khi trở về sẽ báo cáo với anh em trong đơn vị. Những lời căn dặn của Bác sẽ làm động lực lớn để khích lệ các đồng chí quyết tâm vượt qua khó khăn gian khổ chiến đấu giành thắng lợi.

Nhưng đến khi gặp Bác Hồ chỉ kịp thốt lên: Bác! Bác! thế là tôi khóc. Không hiểu giặc tra tấn dã man như thế tôi không khóc, vậy mà đặc biệt sao thấy Bác là tôi khóc. Khóc nhòe hết cả hai mắt. Mà đã khóc là trôi hết mọi suy nghĩ. Sau tôi trấn tĩnh lại, không khóc. Từ đó bắt đầu những lời Bác dặn tôi mới nhớ kỹ được…

Trong gian phòng khách nhỏ, ông bà treo ảnh Bác Hồ, ảnh Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp ở những vị trí trang trọng nhất. Hai ông bà cũng thường xuyên đến thăm gia đình Đại tướng, với hai ông bà, Đại tướng là một người đồng chí, người anh cả.

Bà vui vẻ kể lại buổi Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng đón tiếp những Anh hùng được gặp Bác Hồ (tháng 12/2009), bà lại đeo Huy hiệu Bác Hồ và nói: "Suốt đời tôi luôn nhớ ơn Bác"

Kiều Mai Sơn
.
.
.