Chiếm đoạt hàng trăm tỷ đồng từ kê khống doanh thu của công ty

Thứ Tư, 26/10/2016, 16:40
Do buông lỏng quản lý, ngân hàng và đối tác đã bị vợ chồng Nhung - Đạt chiếm đoạt hàng trăm tỷ đồng. Ngày 26-10, TAND TP Hà Nội đã mở phiên tòa hình sự sơ thẩm xét xử vụ án này.


Nguyễn Quốc Đạt, 40 tuổi và vợ là Nguyễn Thị Hồng Nhung, 39 tuổi (trú tại xã Thanh Xuân, huyện Sóc Sơn, Hà Nội) lập ra hai công ty tư nhân, mỗi người làm Giám đốc một công ty để ký hợp đồng mua bán thép với nhau, chuyển tiền qua lại cho nhau, tự tạo ra dòng luân chuyển tiền với số lượng lớn, thể hiện doanh số bán hàng lớn qua tài khoản của một ngân hàng ở Hà Nội.

Do buông lỏng quản lý, ngân hàng và một đối tác là Công ty cổ phần Gang Thép Thái Nguyên đã bị vợ chồng Nhung - Đạt chiếm đoạt hàng trăm tỷ đồng. Ngày 26-10, TAND TP Hà Nội đã mở phiên tòa hình sự sơ thẩm xét xử vụ án này.

Theo cáo trạng của Viện KSND TP Hà Nội, quá trình kinh doanh, Công ty TNHH Hồng Trang (viết tắt là Công ty Hồng Trang) do Nguyễn Quốc Đạt làm Giám đốc, Nguyễn Hồng Nhung làm Kế toán trưởng và Công ty TNHH Lưỡng Thổ (viết tắt là Công ty Lưỡng Thổ) do Nguyễn Hồng Nhung làm Giám đốc được Phòng Giao dịch Quang Minh của một ngân hàng, chi nhánh Tây Hà Nội phát hành thư bảo lãnh và ký hợp đồng tín dụng cho vay vốn để thực hiện hợp đồng mua bán thép với Công ty cổ phần Gang Thép Thái Nguyên, chi nhánh Hà Nội.

Đạt và Nhung đã dùng pháp nhân của Công ty Hồng Trang và Công ty Lưỡng Thổ ký hơp đồng mua bán thép với nhau để chuyển tiền qua lại cho nhau, tự tạo ra dòng luân chuyển tiền với số lượng lớn, thể hiện doanh số bán hàng lớn qua tài khoản của ngân hành chi nhánh Tây Hà Nội.

Các bị cáo tại phiên xử.

Để thực hiện các hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo lãnh và được áp dụng chính sách khách hàng ưu đãi của ngân hàng, báo cáo của Công ty Hồng Trang thể hiện, năm 2009 công ty có doanh thu 200 tỷ đồng, sang năm 2010 công ty tăng doanh thu lên 1.600 tỷ đồng. 

Đạt với vai trò là Giám đốc Công ty Hồng Trang và Nhung với vai trò là Kế toán trưởng đã lợi dụng việc các cán bộ ngân hàng sơ hở trong quá trình lập hồ sơ tín dụng, thẩm định tài sản đảm bảo tín dụng, vi phạm việc cho vay không đảm bảo quy định, cho vay quá giới hạn quy định để thực hiện thủ đoạn vi phạm các hợp đồng mua bán sắt thép với Công ty cổ phần Gang Thép Thái Nguyên, hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo lãnh thanh toán, thư bảo lãnh thanh toán của ngân hàng, không cung cấp tài liệu, chứng từ, hợp đồng mua bán, hóa đơn GTGT, số tiền do khách hàng trả khi mua sắt với Công ty Hồng Trang.

Từ đây Đạt và Nhung đã thông qua Hợp đồng mua bán thép số 36/GT-HT ngày 18-4-2011, các thư bảo lãnh thanh toán và các hợp đồng tín dụng của ngân hàng đã mua, nhận đủ 32.984 tấn thép của Công ty cổ phần Gang Thép Thái Nguyên. Sau đó bán hết hàng, thu tiền quá thời hạn không thanh toán với số tiền 210,91 tỷ đồng theo quy định của Hợp đồng mua bán thép, thư bảo lãnh thanh toán và các hợp đồng tín dụng rồi chiếm đoạt tài sản.

Viện kiểm sát xác định, Đạt và Nhung đã dùng các thủ đoạn gian dối để thực hiện hành vi chiếm đoạt trót lọt số tiền được bảo lãnh là 50 tỷ đồng và 61,239.450 tỷ đồng tiền vay của ngân hàng chi nhánh Tây Hà Nội.

Giúp sức cho vợ chồng Đạt - Nhung thực hiện trót lọt hành vi phạm tội là Hoàng Kim Ngọc, Giám đốc Phòng Giao dịch Quang Minh, chi nhánh Tây Hà Nội; Đỗ Văn Thường và Phạm Quang Vinh là Phó Giám đốc Phòng Giao giao dịch Quang Minh và Bùi Mạnh Hà là cán bộ quan hệ khách hàng, Phòng Giao dịch Quang Minh đã thực hiện hành vi đề nghị cấp bảo lãnh thanh toán vượt quá giá trị tài sản đảm bảo, không kiểm tra giám sát hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính của Công ty Hồng Trang dẫn đến hậu quả là Phòng Giao dịch Quang Minh không thu hồi được 61,239.450 tỷ đồng tiền vay của ngân hàng và 50 tỷ đồng là số tiền bảo lãnh.

Không chỉ phạm tội trong vai trò là Kế toán trưởng của Công ty Hồng Trang, Nhung còn phạm tội trong vai trò là Giám đốc Công ty Lưỡng Thổ. Hành vi phạm tội của Nhung thể hiện qua việc Công ty Lưỡng Thổ dùng hợp đồng mua bán thép số 02/HĐMB- 2011, ngày 4-1-2011 với Công ty cổ phần Gang Thép Thái Nguyên, chi nhánh Hà Nội; hợp đồng cấp bảo lãnh số 01/2010/HĐBLTT ngày 6-1-2011 giữa ngân hàng và thư bảo lãnh của ngân hàng, từ đó đã phát hành để nhận một lượng thép 17.000 tấn của chi nhánh Hà Nội.

Sau khi bán hết lượng thép trên, Nhung không trả hết tiền cho bên bán qua ngân hàng theo quy định của các hợp đồng và thư bảo lãnh mà dùng thủ đoạn gian dối tạo dựng ra 3 hợp đồng mua bán khống với các công ty tư nhân khác nhằm chiếm đoạt số tiền hơn 51 tỷ đồng của ngân hàng.

Tiếp tay cho hành vi phạm tội của Nhung trong vụ này, vẫn là nhóm cán bộ Phòng Giao dịch Quang Minh gồm: Hoàng Kim Ngọc, Đỗ Văn Thường, Phạm Quang Vinh và Bùi Mạnh Hà khi cố tình làm trái và bỏ qua mọi nguyên tắc, quy định của ngân hàng dẫn đến hậu quả là ngân hàng không có khả năng thu hồi số tiền hơn 51 tỷ đồng mà Trang đã chiếm đoạt.

Ngoài hành vi phạm tội như trên, Nhung còn thực hiện hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của Công ty cổ phần Gang Thép Thái Nguyên, chi nhánh Hà Nội với số lượng 1.390 tấn thép, trị giá hơn 21 tỷ đồng. 

Để cho Nhung thực hiện trót lọt hành vi phạm tội, có sự giúp sức của Trần Văn Song (Tổ trưởng Tổ giao nhận hành của Chi nhánh Công ty cổ phần Gang Thép Thái Nguyên tại Hà Nội); Nguyễn Việt (Trưởng phòng Kế hoạch tổng hợp, Chi nhánh Công ty cổ phần Gang Thép Thái Nguyên tại Hà Nội) và Dương Bá Hòa (Giám đốc Chi nhánh Công ty cổ phần Gang Thép Thái Nguyên tại Hà Nội) vì đã làm tài liệu xin cấp hàng giả, vi phạm quy chế bán thép, không kiểm tra quản lý việc bán hàng, thu tiền của khách hàng, bán thép vượt bảo lãnh của ngân hàng cho Công ty Lưỡng Thổ dẫn đến việc Công ty cổ phần Gang Thép Thái Nguyên không có khả năng thu hồi số tiền hơn 21 tỷ đồng.

Đạt và Nhung bị truy tố về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, theo Điều 140 BLHS. Hòa và Việt bị truy tố về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, theo Điều 285 BLHS. Song bị truy tố về tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, theo Điều 165 BLHS. Ngọc, Vinh, Thường và Hà bị truy tố về tội vi phạm quy định về cho vay trong trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, theo Điều 179 BLHS.

Quá trình xét xử vụ án này, lời khai của một số bị cáo mâu thuẫn với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Nhận thấy tình tiết này không thể làm rõ ngay được tại phiên xử nên HĐXX đã quyết định trả hồ sơ vụ án, yêu cầu điều tra bổ sung để làm rõ vấn đề liên quan đến tội danh của bị cáo Nhung và Đạt; xác định lại tội danh của Đạt tại ngân hàng và xác định lại tội danh của một số bị cáo là cựu cán bộ ngân hàng.

Nguyễn Hưng
.
.
.